VÕ THANH PHONG
Cách nay độ một
tuần, tôi đọc bài thơ Đường luật Vẫn một tình yêu của tác giả - Nhà
giáo Lê Ngọc Thạc đăng trên chuyên san số 27 Hội Cựu Giáo
chức tỉnh An Giang.
Bài thơ cứ làm trăn trở trong tôi bao nỗi niềm trắc ẩn về câu chuyện người Thầy. Nguyên văn bài thơ
như sau:
VẪN MỘT TÌNH YÊU
Tóc thầy năm tháng cứ dần trôi
Bến cũ, đò xưa cách biệt rồi
Mấy độ lửa hồng soi nét bút
Trong tim phượng thắm nhuộm trang đời
Theo dòng con nước âm thầm chảy
Cho giọt phù sa lặng lẽ bồi
Bóng ngã hoàng hôn về với Hội
Một tình yêu lớn chẳng hề vơi !
LÊ
NGỌC THẠC
Vẫn một tình yêu là nhan đề đa nghĩa, biểu hiện đậm nét tấm lòng cung kính người
Thầy, đồng thời nói hộ tâm sự đồng nghiệp và cũng vang lên tiếng
lòng của chính tác giả.
Bài thơ như kể lại câu chuyện người
Thầy, đó là người Thầy của ngày xưa từng sống những năm tháng cống
hiến cho nghề dạy học, nay đã nghỉ hưu, xa trường xa lớp; nhưng lòng
luôn muốn giữ lại ngọn lửa của tình yêu nghề, yêu người. Vậy là
Thầy“về với Hội”để chăm chút
cho ngọn lửa ấy. Tưởng thường tình, đơn giản giống như hầu hết câu
chuyện về người Thầy nói chung, nhưng không, sau câu chuyện ấy còn ẩn
chứa cả nỗi lòng, một quan niệm sống được thể hiện bằng những chỗ
lạ của ngôn từ và cái mới của hình ảnh.
Hình ảnh“tóc thầy”bạc màu theo năm tháng ở câu thơ mở đầu là không
mới, thường gợi lên bóng dáng thầy giáo già ở mọi thời. Tuy nhiên,
cái mới ở đây là khi đặt trong ngữ cảnh câu thơ thì nó cụ thể hóa
sự biến chuyển cuộc đời người thầy theo hướng phôi pha, phai nhạt song
hành cùng thời gian. Vậy nên, hình ảnh “tóc thầy” vừa trỗi
dậy nỗi nhớ người Thầy đáng kính trong tâm tưởng vừa biểu hiện hầu
hết những người Thầy và thật ra cũng nhận thấy ở chính mình –
người Thầy của hôm nay.
Câu thơ tiếp theo hiện ra hình ảnh “con đò đưa khách”, một môtíp khá
quen thuộc thể hiện rất đúng công việc dạy học. Vậy mà, Đò đứng
cạnh Bến cùng ghép với hai chữ “xưa”và
“cũ”thành “Bến cũ, Đò xưa” khơi vào lòng ta nỗi buồn man mác với
những tiếc nuối bâng khuâng vì nay Đò và Bến đã “cách biệt rồi”, bến cũ mãi mãi vắng bóng đò xưa!
Hai câu thơ “Mấy độ lửa hồng soi nét bút/ Trong tim phượng thắm nhuộm trang đời” thật mơ hồ mà có ý nghĩa triết lý. Sao lại “lửa hồng soi nét bút”? Phải chăng
đâu chỉ là ánh sáng của ngọn đèn mà chính là nguồn sáng, hơi ấm
ngọn lửa của lòng nhiệt huyết soi vào, phả vào từng dòng chữ trên
trang giáo án năm xưa? Rồi đến cánh phượng đỏ thắm – nét đẹp thanh
cao, hồn nhiên của Thầy, của trò – được đặt vào câu thơ có ý nghĩa
tượng trưng cho những gì thuộc về giá trị tinh thần hay giá trị văn
hóa của môi trường giáo dục. Cho nên, được làm Thầy là được “nhuộm” những giá trị đó vào “trang đời”.Chữ “nhuộm”ở đây rất thần tình, bởi vì nhuộm nên khó phai mờ,
khó tan biến những cái thuộc về văn hóa nghề giáo. Chất văn hóa ấy
có phải là dáng điệu, phong thái, phẩm cách...không lẫn vào đâu
được, dù từ lâu đã rời bục giảng?
Dòng nước mang nặng hạt phù sa âm thầm,
lặng lẽ bồi đắp cho đời để nói lên công lao nghể giáo ở hai câu 5-6
là nghĩa gián tiếp, bên ngoài lời thơ. Còn âm điệu thì trầm lắng như
chùn xuống từ hai câu thơ như gợi lên nỗi niềm chưa được chia sẻ. Bởi
lẽ, ai cũng dễ nhận thấy màu cuộc sống tươi xanh mà thường quên
những hạt phù sa “âm thầm, lặng
lẽ”.
Đến câu thứ 7, mạch thơ
chuyển hơi đột ngột, bất ngờ. “Bóng
ngã hoàng hôn” thật hiu hắt, đượm buồn; rồi người Thầy ấy “về với Hội” có vẻ an phận. Thế
nhưng, đến câu cuối thì câu chuyện người Thầy không khép lại bằng nỗi
buồn, cái an phận thường tình. Câu chuyện ấy mở ra một quãng đời
mới có hình ảnh người Thầy sống trong tình đồng nghiệp, trong ký ức
những năm tháng đẹp đẽ bằng “Một
tình yêu lớn chẳng hề vơi!”.
Võ Thanh Phong
Tổ Trưởng Tổ Văn
Trường THPT. Nguyễn Văn
Hưởng-
Huyện
Chợ Mới- Tỉnh An Giang. DĐ: 0918 999643
T rong văn hóa ẩm thực dân gian
Nam bộ thì canh chua là một trong những món ăn được mọi người ưa thích nhất.
Thông thường, khi nấu canh chua các bà nội trợ hay sử dụng các nguyên liệu để
tạo vị chua như me, khế, bứa, cải dưa chua… Thế nhưng, đây chỉ là những phương
pháp thông thường mà thôi.
Với bài viết này, chúng tôi xin giới
thiệu hai món canh chua ngon và độc đáo hơn. Khi có điều kiện bạn hãy thưởng
thức, ăn một lần sẽ nhớ mãi…
I-
Canh chua lá giang:
1- Lá giang:
Cây lá giang (còn gọi là giang chua,
dây giang) là loài cây mọc hoang dại, tên khoa học là Aganonerion polymorphum.
Thân cây lá giang là loại dây leo dài khoảng 1,5m – 4m, nhẵn, có ít nhựa mủ
trắng. Thân bò trên cây sống, cây chết hoặc thảm thực vật xanh. Rễ có nhiều cấp
mọc sâu trên đất ẩm. Lá giang là lá đơn, hình trái tim mọc đối, có vị chua dịu,
tính mát. Hoa mọc thành chùm, màu hồng nhạt, 5 cánh đều nhau, đài hoa hình ống,
tràng hoa hình chuông, 5 nhụy ngắn, nhiều noãn. Quả giang có 2 đai, hạt có chùm
lông ở đỉnh. Theo đông y, lá giang có tính mát, thanh nhiệt, tiêu viêm, sát
khuẩn. Lá giang còn dùng để chữa các chứng ăn không tiêu, bụng đầy chướng, đau
dạ dày, đau nhức xương khớp.
Với những đặc điểm nêu trên nên người
dân Nam bộ đã dùng lá giang để chế biến nhiều món ăn bổ dưỡng như xào với thịt
bò, thịt gà, nấu canh chua với các loại cá nước ngọt… Nhưng có lẽ canh chua lá
giang với thịt gà là món ăn ngon và được mọi người ưa thích nhất.
2- Cách chế biến:
Lặt lá giang xanh non, rửa
sạch, cắt nhỏ hoặc vò dập. Không nên dùng lá già vì sẽ có vị hơi chát, gây khó
ăn. Gà chặt miếng vừa ăn, ướp với 3 cọng hành đập dập và gia vị như đường, nước
mắm… Nên chọn gà thả vườn hoặc gà rừng vì thịt sẽ săn chắc và ngon hơn. Đun
nóng 2 muỗng cà phê dầu ăn, cho gà vào và xào thật săn.
Đun sôi nước, cho gà vào đun tiếp đến
khi gà chín, cho lá giang vào, đun sôi lại. Có thể nấu thêm với hành tây, rau
muống đồng hoặc bắp chuối cắt mỏng… Nêm đường, nước mắm, muối… cho vừa ăn. Cho
canh gà lá giang ra bát để ăn nóng. Rắc thêm ít rau om, ngò gai, lá quế cắt
nhuyễn lên trên. Thế là chúng ta đã có một món canh chua thật ngon, đậm nét dân
gian. Món canh này ngon nhất khi ăn nóng cùng với cơm gạo tẻ, ngoài ra có thể
ăn kèm với mì hoặc bún…
Lưu ý: Khi nấu canh chua lá giang,
tránh sử dụng nồi nhôm, chỉ nên sử dụng nồi inox hoặc tráng men không rỉ.
II- Canh chua trái giác:
1- Trái giác:
Cây giác là một loại dây leo
mọc hoang khắp những vạt rừng dừa nước, vườn tràm, bờ ao…ở vùng Nam bộ, có tên
khoa học là Cayratia trifolia. Dây giác thường
mọc quấn quanh những lùm cây ven sông rạch. Trái giác tròn, nhỏ và dính vào
nhau thành từng chùm, khi còn non, trái nhỏ như hạt đậu xanh. Càng lớn, trái
càng có màu xanh đậm và bóng. Trái chín lại càng có màu đen thẫm, bên trong màu
tím như mực mồng tơi, giống như trái nho chín nhưng kích cỡ nhỏ hơn. Vì thế nên
người bình dân ở Nam bộ gọi nó là nho
rừng. Trái giác non có vị chua chát, càng lớn vị thay đổi sang chua thanh
đến chua ngọt. Chất nhờn của trái gây ngứa nên không ăn được. Thế nhưng, trí
tuệ dân gian thật tuyệt vời khi đã sử dụng nó để tạo nên những món ăn độc đáo
của miền sông nước. Đặc biệt, chúng tôi muốn nói đến món canh chua trái giác
nấu với cá rô đồng.
2- Cách chế biến:
Để món canh chua thật ngon,
người ta sử dụng trái giác già, nghĩa là trái đã đến độ sắp chín nhưng màu vẫn
còn xanh. Chùm trái giác đem về, lặt từng trái một, rửa sạch. Nấu nước thật sôi
rồi cho trái giác vào, tiếp tục đun đến khi trái mềm rệu rã thì lược lấy trái
cho ra tô. Sau đó, cho một ít nước sôi vào tô, dầm vừa tay cho trái giác nhuyễn
từ từ, cho thêm một ít nước sôi nữa hòa vào phần đã dầm để lọc lấy nước rồi
trút lại vào nồi canh đang nấu.
Lược nước chua của trái giác xong thì
cho cá đã làm sạch vào nồi (cá rô đồng, con lớn còn gọi là cá rô mề, hoặc nấu
với lươn…). Sau đó nêm cho nồi canh vừa ăn với các gia vị như bột ngọt, nước
mắm, đường… Đợi cá chín, cho tiếp rau muống đồng (hoặc bông súng vào). Khi nồi
canh vừa ăn, cá và rau chín đều thì nhắc nồi khỏi bếp lửa. Rau ngò om rửa sạch,
cắt nhỏ sẽ cho vào nồi canh sau cùng. Vậy là chúng ta đã có món canh chua ngon
và độc đáo.
Để đảm bảo hương vị chủ đạo của món
canh chua, chúng ta vẫn phải chọn trái giác già mới ngon. Tuy nhiên, nếu thêm
một vài chùm trái giác chín muồi thì nồi canh sẽ có màu tím rất đẹp.
Trên đây là hai món ngon dân gian của
vùng sông nước được nhiều người ưa thích. Có thể nói nó là một phát hiện độc
đáo tạo nên sự đa dạng và phong phú thêm văn hóa ẩm thực miền Tây Nam bộ.
LÊ NGỌC THẠC
(Hội Liên hiệp VHNT Tỉnh Đồng Tháp)
ĐI TÌM TÁC GIẢ
NHỮNG CÂU CA DAO BẤT HỦ
C a dao là thơ ca dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát, được sáng tác bằng thể văn vần của dân tộc, thường là thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc. Ca dao là một từ Hán-Việt. Theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc.Về nội dung, ca dao phản ánh lịch sử, phản ánh nếp sống, phong tục tập quán truyền thống, đời sống tình cảm của nhân dân… Ngoài ra ca dao còn chứa đựng tiếng cười trào phúng.
Trong kho tàng văn nghệ dân gian, ca dao phần lớn không có tên tác giả. Tuy nhiên, cũng có những câu lục bát hay được phổ biến rộng rãi đến mức trở thành câu cửa miệng, trở thành lời ăn tiếng nói của nhân nhân và mọi người xem như là những câu ca dao quen thuộc. Rất ít người biết ai là tác giả của những câu thơ ấy. Người ta cứ nghĩ đó là những câu ca dao khuyết danh, là sản phẩm do quần chúng nhân dân lao đông sáng tạo ra. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin được phép cùng các bạn đi tìm tác giả của một số bài ca dao nổi tiếng, sống mãi với thời gian.
A- Bài 1:
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác
Hồ.
Những vần thơ giản dị nhưng giàu cảm xúc trên
đã đi cùng năm tháng, đã trở thành thơ ca dân gian và thuộc về nhân dân. Tác
giả của hai câu ca dao này là nhà thơ Bảo Định Giang.
Bảo Định Giang sinh năm 1919, tên
thật là Nguyễn Thanh Danh, quê quán tại xã Mỹ Thiện, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền
Giang. Ông đã từng giữ những chức vụ quan trọng
ở các cơ quan quản lý văn hóa-văn nghệ như:
- Vụ Phó Vụ Văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung Ương
-
Trưởng Ban Văn
nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam.
-
PCT Hội Văn nghệ
dân gian Việt Nam.
-
Chủ Tịch Hội Liên
hiệp VHNT TP Hồ Chí Minh.
-
Tổng biên tập báo
Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh…
Ông mất ngày
1.2.2005 tại TP. Hồ Chí Minh.
Trong thời kháng chiến chống Pháp,
ông hoạt động thông tin, báo chí ở chiến trường Nam bộ. Hai câu thơ trên có
xuất xứ từ bài thơ mang tên Đẹp nhứt được
ông sáng tác năm 1947 trên đất Tháp Mười. Lúc ấy Bảo Định Giang mới ngoài 20
tuổi, đang là cán bộ Ban Tuyên truyền lưu động Chiến khu 8 thuộc Tuyên huấn Bộ
Tư lệnh Nam bộ. Bài thơ như sau:
ĐẸP
NHỨT
Tháp Mười đẹp nhứt
bông sen
Nước Nam đẹp nhứt
có tên cụ Hồ
Bông sen dành để
lễ chùa
Cụ Hồ mãi mãi tôn thờ trong tâm.
BẢO ĐỊNH GIANG
Sau khi sáng tác, bài thơ trên đã được
truyền miệng, in trên sách báo phổ biến khắp vùng Đồng Tháp Mười. Năm 1948, bài
thơ được chuyển ra miền Bắc trong một tập thơ chép tay của Bảo Định Giang. Ông
cho biết “…Có điều rất thú vị là nhiều nơi hồi đó, kể cả Việt Bắc, khi đăng lên
báo người ta đã bỏ 2 câu cuối của bài thơ. Cho đến nay, nhiều sách báo cũng chỉ
in 2 câu thơ đầu, coi như thế là gọn và đầy đủ ý nghĩa”. Hiện nay, 2 câu thơ đã
được phổ thông hóa bằng sự thay đổi đi 4 từ của phương ngữ Nam bộ và trở thành:
Tháp Mười đẹp nhất hoa sen
Việt Nam đẹp
nhất có tên Bác Hồ.
Có thể nói đây là 2 câu ca dao
hiện đại hay nhất viết về Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Nó không chỉ là niềm tự hào của
người dân Đồng Tháp Mười, của người dân Nam bộ mà còn là niềm tự hào của kho
tàng văn nghệ dân gian Việt Nam.
B- Bài 2:
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ
đi?
Đây là 2 câu ca dao mà có lẽ
ai cũng thuộc. Chỉ có 14 từ, không có từ nào hoa mỹ, trau chuốt nhưng lại rất
hay! Hai câu ca dao là sự gặp gỡ giữa thế giới ngoại cảnh và thế giới nội tâm
đẹp vô cùng. Tả cảnh nhưng chứa đựng trong đó biết bao nhiêu tình. Hình tượng “Múc ánh trăng vàng đổ đi” là sự cất
cánh của hiện thực, một chi tiết đầy thi vị và lãng mạn. Tác giả của 2 câu ca
dao này là nhà giáo, nhà thơ, nhà nhiếp ảnh Bàng Bá Lân.
Bàng Bá Lân sinh ngày 17.12.1912 tại phố Tân Minh, Phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. Tuy nhiên, chính quán của ông lại ở làng Đôn Thư, tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông tên thật là Nguyễn Xuân Lân, là nhà giáo, nhà thơ, nhà nhiếp ảnh nổi tiếng của Việt Nam.
Trước Cách mạng tháng 8, ông đã có
những tác phẩm như: Tiếng thông reo (1934), Xưa (hợp tác với nữ sĩ Anh Thơ
1941), Tiếng sáo diều (1939-1945)…
Năm 1954, ông vào Sài Gòn dạy học và
cộng tác với nhiều nhật báo, tuần san, bán nguyệt san và xuất bản nhiều tập
thơ, biên khảo, dịch thuật, viết sách giáo khoa Việt văn cho nhiều cấp
lớp…Trong lĩnh vực nhiếp ảnh, ông cũng là một tài năng, từng đạt nhiều giải
thưởng, được triễn lãm ở trong và ngoài nước.
Bàng Bá Lân mất ngày 20.10.1988 tại
TP. Hồ Chí Minh, thọ 76 tuổi.
Hai câu thơ đã trở thành ca dao nêu
trên có xuất xứ từ bài Tiếng hát trong
trăng, được sáng tác năm 1934 và in trong tập Tiếng thông reo. Bài thơ như
sau:
TIẾNG HÁT TRONG TRĂNG
Trời
cao, mây bạc, trăng tròn
Dế than hiu quạnh, tre buồn nỉ non
Diều ai gọi gió véo von
Cành xoan đùa ánh trăng suông dịu dàng
- Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?
BÀNG BÁ LÂN
“ Người ta không thể múc ánh trăng vàng mà là múc trăng vàng ở dưới nước. Khi cái gầu
của cô gái trong câu ca dao dìm xuống nước thì mặt trăng tan vỡ ra trong nước,
hòa với nước, sóng sánh cùng với nước.
Thế là cô gái múc nước tát lên ruộng
cao cũng đồng thời múc luôn cả vầng trăng tan vỡ trong đó…”
Mặc dù có sự thay đổi như vậy, nhưng theo chúng tôi, cả 2 cách diễn đạt
đều hay và đẹp cả. Chất thơ, chất trữ tình lãng mạn ấy đã đi vào lòng người đọc
khiến 2 câu ca dao đã trở thành bất hủ trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Lúc
sinh thời, nhà thơ Bảo Định Giang đã từng nói:
“ Ca dao xưa nay bao giờ cũng vậy. Nó sống được, tốt thêm là nhờ đông
tay chăm sóc và mỗi người đều có quyền sửa chữa, thêm bớt cho đến lúc viên mãn
mới thôi.”
Trên đây là hai trong một số trường
hợp ca dao có tên tác giả. Tuy nhà thơ Bảo Định Giang và Bàng Bá Lân đã đi xa,
đã vĩnh viễn về cùng đất mẹ; nhưng thơ của các ông đã hòa vào cùng dân gian,
cùng đân tộc để sống và mãi mãi trường tồn cùng năm tháng.
LÊ NGỌC THẠC
(Hội Liên hiệp VHNT Tỉnh Đồng Tháp)
(Hội Liên hiệp VHNT Tỉnh Đồng Tháp)
T rong
kho tàng ca dao Việt Nam, hoa sen đã được nhân dân ta trân trọng dành cho một
vị trí vô cùng đặc biệt. Ở Đồng Tháp, hoa sen là loài hoa đặc trưng của tỉnh.
Người dân vùng châu thổ mênh mang, trù phú này hầu như ai cũng thuộc lòng bài
ca dao bình dị sau đây:
Trong
đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà
chẳng hôi tanh mùi bùn.
Thế
nhưng, nội hàm bài ca dao quen thuộc, dễ đọc, dễ nhớ này lại mang một triết lý
nhân sinh vô cùng thâm thúy.
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Câu mở đầu của bài ca dao là sự khẳng định: Sen là
loài hoa đẹp nhất trong các loài hoa mọc ở chốn đầm lầy! Tác giả dân gian đã vô
cùng khéo léo khi không dùng dạng câu khẳng định thông thường mà dùng một câu
hỏi tu từ.
Câu hỏi tu từ là dạng câu hỏi đặt ra chỉ nhằm
khẳng định một ý kiến hoặc một nhận xét nào đó chứ không phải để người đối
thoại đưa ra câu trả lời. Nó có tác dụng dẫn dắt người đọc đi đến sự đồng tình.
Bản thân câu hỏi đã là câu trả lời và có sức lôi cuốn gấp nhiều lần so với câu
khẳng định thông thường.
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng
Từ sự khẳng
định sen là loài hoa đẹp nhất ở nơi đầm lầy, tác giả dân gian đã dùng câu 2 để
miêu tả tỉ mỉ và sinh động vẻ đẹp của cây sen nhằm chứng minh cho nhận xét trên
là hoàn toàn đúng.
Cây sen được miêu tả từ ngoài vào trong, tỉ mỉ từng bộ phận từ lá, bông
đến nhị… Lá sen thì màu xanh, bông sen màu trắng thuần khiết, nhị sen điểm màu
vàng… Chúng ta chú ý từ “chen”, từ
này có giá trị gợi hình cho người đọc cảm nhận là các bộ phận của cây sen đua
nhau khoe với cuộc đời vẻ đẹp của mình. Tất cả tạo nên một bức tranh thiên
nhiên với nhiều sắc màu kết hợp kỳ diệu. Đến đây, người đọc tưởng tượng ra
trước mắt mình hình ảnh khóm sen mọc lên giữa đầm nước trong veo mùa hạ. Lá sen
màu xanh nổi trên mặt nước, cánh sen trắng muốt, tinh khôi và hương thơm thoang
thoảng tỏa ra từ những nhị hoa màu vàng…
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Câu thứ 3 thật bất ngờ làm sao! Cũng là những hình ảnh
cũ, nhưng vị trí đã bị hoán đổi. Đây là câu đặc biệt của bài ca dao, nó mang ý
nghĩa của một câu chuyển (chuyển vần và chuyển ý).
- Chuyển vần: Vần thơ được chuyển từ “ang” sang “anh”.
- Chuyển ý: Nếu như
câu 2 miêu tả sen từ ngoài vào trong thì câu 3 lại miêu tả từ trong ra ngoài.
Nhà thơ Huy Cận đã từng hình dung tác giả dân gian đang “lật từng lá sen xanh,
chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhị sen vàng…”. Cách đảo ngược trật tự từ ngữ
này còn mang đến cho người đọc cách nhìn đa chiều: Nhìn từ ngoài vào trong hay
nhìn từ trong ra ngoài thì sen cũng đẹp cả!
Hai chữ “nhị vàng” ở cuối câu
2 được lặp lại ở đầu câu 3 theo thủ pháp liên hoàn có tác dụng tạo nên sự liên
tục trong tư duy và cảm xúc khiến bài ca dao phát triển liền mạch và mạnh mẽ về
nội dung lẫn hình thức.
Câu thứ 3 có giá trị chuyển bài ca dao từ nghĩa hiển ngôn sang nghĩa hàm
ẩn. Câu thơ khép lại hình tượng hoa sen để mở ra hình tượng con người một cách
thật tài tình.
Gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Quả thực câu
kết này là đỉnh điểm, là cái thần của bài ca dao. Nếu thiếu câu này thì hoa sen
sẽ không có linh hồn và bài ca dao sẽ không mang tầm cao triết lý nhân sinh
lồng lộng. Đến đây thì không còn là hoa sen trong thiên nhiên nữa mà chính là
con người trong cuộc đời. Ý nghĩa ẩn dụ của hoa sen đã mở ra không còn giới hạn
trong tư duy người đọc.
Với bút pháp ẩn dụ tài hoa, tác giả dân gian giúp cho người đọc nhận
thức rằng: Sen chính là con người, bùn
trong đầm lầy (nghĩa đen) đã biến thành bùn lầy trong cuộc đời (nghĩa bóng).
Câu kết bài ca dao đặt ra mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh sống
(môi trường xã hội). Thông qua đặc điểm của hoa sen, nhân dân ta thể hiện thái
độ khẳng định giá trị, nhân phẩm của con người phải luôn được gìn giữ trong
sạch dù môi trường xã hội có đầy rẫy những thói xấu xa, độc ác. Đây là lẽ sống
cao đẹp của con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
x x
x
Bài ca dao là sự kết hợp tuyệt vời giữa hình thức nghệ thuật với tình
cảm, ý tưởng của tác giả dân gian. Bốn câu thơ ngắn gọn nhưng được sử dụng nhiều
thủ pháp nghệ thuật như: Câu hỏi tu từ, phép ẩn dụ, tương phản… Nhịp thơ chậm
rãi 2/2/2… khiến câu thơ như một sự chiêm nghiệm về cuộc đời để rồi đi đến kết
luận.
Những câu lục bát chảy qua bốn dòng thơ
giản dị, dễ hiểu; nhưng ý tưởng thật sâu
xa mang tầm cao triết lý nhân sinh lồng lộng. Bài ca dao xứng đáng là viên ngọc
quý trong kho tàng văn nghệ dân gian của dân tộc.
Leâ Ngoïc
Thaïc
ĐI TÌM CÂU
THƠ
TRONG
DI CHÚC CỦA BÁC HỒ
-----ooOOoo------
N gày 02.09.1969, trái tim vĩ đại của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã ngừng đập. Trước khi về cõi vĩnh hằng, Người để lại cho toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta một bản di chúc vô cùng quan trọng .
Trong phần đầu của bản di chúc, Bác Hồ
đã viết :
Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở
Trung Quốc đời nhà Đường, có câu rằng “
Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là “Người thọ bảy mươi, xưa nay hiếm”.
Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm” nhưng tinh
thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây …”
Trong phạm vi bài viết này, tôi không có ý định phân
tích những giá trị tư tưởng của bản di chúc vì điều ấy vô cùng to lớn. Ở đây,
người viết chỉ muốn đi tìm lại xuất xứ câu thơ mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã trích
dẫn . Đó là “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, đồng thời tìm hiểu đôi nét về
cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của Đỗ Phủ, người được thiên hạ xưng tụng là Thi
Thánh .
I- VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI ĐỖ PHỦ :
Đỗ Phủ ( 712-770 ) là nhà thơ rất
nổi tiếng đời nhà Đường. Cùng với Lý Bạch và Bạch Cư Dị, ông được xem là một
trong ba nhà thơ vĩ đại nhất của Trung Quốc .
Ông xuất thân trong một gia đình
quý tộc đã sa sút, sinh năm 712 tại làng Đỗ Lăng, phủ Kinh Triệu, tỉnh Thiểm
Tây. Ông nội là Đỗ Thẩm Ngôn, một nhà thơ nổi tiêng thời Sơ Đường ; cha là Đỗ
Nhàn có làm quan .
- Từ lúc chào đời cho đến năm 746
( 35 năm ) : Đỗ Phủ sống giữa thời kỳ phồn vinh của xã hội phong kiến đời
Đường. Ông bắt đầu sáng tác năm 7 tuổi và đến năm 14 tuổi đã trở thành nhà thơ
trẻ được các bậc đàn anh mến phục. Năm 744, Đỗ Phủ gặp nhà thơ Lý Bạch tại Lạc
Dương và hai người đã kết bạn vong niên ( Lý Bạch lớn hơn Đỗ Phủ 11 tuổi ) .
- Từ năm 746 đến 755 : Đỗ Phủ vô
cùng lận đận trên con đường công danh,
bị gian thần hãm hại nên dù có tài ông cũng chỉ làm chức quan nhỏ( Công Bộ Viên
Ngoại Lang ). Cuộc sống gian nan cực khổ trong thời kỳ này đã khiến Đỗ Phủ sáng
tác hàng loạt bài thơ giàu tính hiện thực làm xúc động lòng người . Thơ ca của
ông đã chuyển sang một giai đoạn mới : Chủ nghĩa hiện thực phê phán .
Tháng 11 năm 755, Tiết Độ Sứ An Lộc
Sơn nổi loạn đem quân cướp ngôi nhà Đường và đất nước chìm trong khói lửa chiến
tranh suốt nhiều năm trời .
- Tháng 7 năm 759, Đỗ Phủ từ quan
và phải chạy loạn nhiều nơi, cuộc sống rất vất vả, gian nan. Qua bao năm lưu
lạc, giờ đây tuổi già sức yếu, ông thường xuyên bệnh hoạn. Cuộc sống đói rét
bệnh tật cứ dày vò nhà thơ mãi. Mùa đông năm 770, Đỗ Phủ nhắm mắt lìa đời trong
chiếc thuyền rách nát lênh đênh trên sông Tương, lúc 59 tuổi.
II- VỀ SỰ NGHIỆP THƠ CA :
Đỗ Phủ đã để lại cho đời sau hơn
1400 bài thơ, chia thành 2 loại :
-
Cổ thể thi : Là loại thơ tự do, gồm 416 bài .
-
Cận thể thi : Là loại thơ cách luật, gồm 1037 bài .
Thơ ông chính là nỗi đau của bản
thân mình hòa chung với nỗi đau của nhân dân, của đất nước. Đọc thơ Đỗ Phủ, ta
thấy được diện mạo xã hội đời Đường từ thời kỳ hưng thịnh đến suy vong, đặc
biệt là trong hơn 20 năm khói lửa chiến tranh. Vì vậy, người ta gọi thơ ông là
Thi sử. Có thể kể đến những bài thơ nổi tiếng và tiêu biểu của Đỗ Phủ như sau :
- Đăng cao, Binh xa hành, Khúc giang .
-
Mao ốc vi thu phong sở phá ca .
- Thu hứng ( 8 bài ).
- Tam lại : Thạch Hào lại, Đồng
Quan lại, Tân An lại .
- Tam biệt : Thùy lão biệt, Tân
hôn biệt, Vô gia biệt ….
Từ thơ ngũ ngôn đến thất ngôn,
cổ thể hay cận thể ; nếu qua tay Đỗ Phủ đều trở nên xuất sắc, nhuần nhuyễn. Ông
nắm rất vững thanh vận của ngôn ngữ Trung Quốc, phát huy nó tối đa để tạo được
sức truyền cảm của thơ. Ngoài ra ông còn sáng tạo những hình ảnh thi vị, mới
mẻ, giàu sức truyền cảm, trong thơ có những ý tưởng, khí phách lớn lao. Với
những cống hiến xuất sắc cho kho tàng Đường thi nên Đỗ Phủ được người đời tôn
vinh là Thi Thánh .
III- VỀ CÂU THƠ ĐƯỢC BÁC HỒ TRÍCH
DẪN :
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn
câu : “ Nhân sinh thất thập cổ lai hy”.
Câu này có ý nghĩa đơn giản là con
người sống được bảy mươi tuổi là hiếm có. Đây là nhận xét rất đúng với đời sống
con người ngày xưa, khi xã hội còn nghèo nàn lạc hậu, nền văn minh của nhân
loại chưa được phát triển .
Câu thơ được trích trong bài KHÚC
GIANG KỲ NHỊ của Đỗ Phủ, sáng tác năm 757 trong thời gian làm quan tại Tràng
An, lúc đó tác giả 45 tuổi . Bài thơ như sau :
KHÚC GIANG
kỳ nhị
Triều hồi nhật nhật điển xuân
y
Mỗi nhật giang đầu
tận túy quy
Tửu trái tầm thường
hành xứ hữu
Nhân sinh thất thập cổ lai hy (*)
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
Điểm thủy thanh
đình khoản khoản phi
Truyền ngữ phong
quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi .
ĐỖ PHỦ
(*) : Câu thơ được Bác Hồ
trích dẫn .
SÔNG KHÚC
phần 2
Tan chầu lại cởi áo đem vay
Túy lúy đầu sông cuối mỗi
ngày
Nợ rượu bao phen đều
ngõ xóm
Đời người bảy chục hiếm xưa nay
Vờn hoa bươm bướm
tung tăng lượn
Giỡn nước chuồn
chuồn phấp phới bay
Phong cảnh nhớ cho
luôn biến đổi
Hưởng đi, kẻo tiếc
nuối sau này !
LÊ NGỌC THẠC
( Phỏng dịch )
Chủ Tịch Hồ Chí Minh xuất thân từ
một gia đình có truyền thống Nho học. Ông ngoại là cụ Tú Hoàng Xuân Đường, một
nhà Nho nổi tiếng uyên thâm Hán học ở xứ Nghệ; cha là cụ Nguyễn Sinh Sắc (
Nguyễn Sinh Huy ) đỗ Phó Bảng và từng làm Thừa biện bộ Lễ rồi đến Tri huyện
Bình Khê, tỉnh Bình Định .
Kế thừa tuyền thống Nho học của
gia đình; trong hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Bác còn nghiên cứu và
tiếp thu những học thuyết, những tư tưởng lớn của phương Tây. Sự hòa quyện hai nền văn hóa Đông-Tây đã hình thành nên một lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại : Anh hùng
giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới .
LÊ NGỌC THẠC
( P.Chủ Nhiệm CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP.Cao Lãnh-Đồng Tháp )
CỦA THIỀN SƯ MÃN GIÁC
Vào
thời nhà Lý (1009-1225), Thăng Long trở thành kinh đô nước Đại Việt. Đạo Phật
gần như là quốc giáo, nhiêù vị thiền sư được triều đình trọng vọng. Họ là những
con người lỗi lạc. đức trọng, tài cao, giỏi thơ văn, tên tuổi sáng ngời sử sách
của dân tộc .
Trong số đó, Mãn Giác thiền sư
là một vị cao tăng có tâm hồn thi sĩ tuyệt đẹp. Ông đã để lại cho đời sau một
bài thơ bất hủ, đó là bài Cáo tật thị chúng ( Có bệnh bảo mọi người ). Với bài
thơ này, ông được xem là một trong những tên tuổi tiêu biểu của dòng văn thơ
thời Lý-Trần.
Nhân dịp xuân về, trăm hoa đua
nở, chúng ta có thể dành một chút thời gian để nhớ về cành mai của Người .
I- VÀI NÉT VỀ MÃN GIÁC THIỀN SƯ
:
Mãn Giác thiền sư (1052-1096)
tên thật là Lý Trường, còn Mãn Giác thiền sư là pháp danh do vua Lý Nhân Tông
tặng khi ông viên tịch.
Thiền sư là con của Trung Thơ
Viên Ngoại Lang Lý Hoài Tố và là học trò của Quảng Trí thiền sư. Là người có
tài trí nên ông được chọn vào dạy cho Thái Tử Càn Đức (1071). Sau này Thái Tử
Càn Đức lên ngôi (tức là Lý Nhân Tông), ngài rất trọng thầy học, nên sai dựng
chùa Giáo Nguyên ở bên cạnh cung Cảnh Hưng cho ông trụ trì để tiện việc thăm
hỏi và bàn bạc chính sự .
Mãn Giác thiền sư là người rất
uyên thâm cả Nho và Phật. Trước khi vào cung ông đã có nhiều học trò và đã trở
thành một thần tượng trong thế hệ thứ 8 của dòng thiền Quang Bích .
Ông mất năm 1096 ( đời Lý Nhân
Tông ), khi mới 44 tuổi .
II- VỀ BÀI THƠ CÁO TẬT THỊ CHÚNG
:
Thật ra đây là một bài kệ ( kinh kệ ). Kệ là một thể loại
văn học Phật giáo thường viết dưới hình thức thơ, tóm tắt tư tưởng của một bài
thuyết pháp để dạy đệ tử, nên còn được gọi là thi kệ .
Theo sách Thiền Uyển tập anh,
bài Cáo tật thị chúng ra đời vào ngày 30.11.1096. Khi Mãn Giác thiền sư lâm
bệnh nặng, ông đã viết bài kệ này để dặn dò và giáo huấn các đệ tử .
Do tâm hồn và tài năng của
Mãn Giác thiền sư, nên Cáo tật thị chúng không chỉ là bài kệ khô khan mà đã trở
thành một thi phẩm bất hủ, sống mãi với thời gian. Bài thơ được viết dưới hình
thức “ lục cú hỗn thể” với 4 câu đầu ngũ ngôn và 2 câu sau thất ngôn.
CÁO TẬT THỊ CHÚNG
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ
nhất chi mai .
MÃN GIÁC THIỀN SƯ
CÓ BỆNH BẢO MỌI NGƯỜI
Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm
hoa khai
Sự đời trôi
trước mắt
Trên đầu tóc đã phai
Nào phải xuân
tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một cành
mai .
LÊ NGỌC THẠC
( Phỏng dịch )
Trong giờ phút lâm chung,
trước đầy đủ các sư tăng, thiền sư đã đọc bài thi kệ này như lời di chúc của
một vị chân tu đối với các đệ tử và cho tất cả mọi người. Đọc xong, Người qua
đời !
Bài thơ đã nêu một vấn đề muôn
thuở của đời người mà biết bao thế hệ phải trăn trở, đó là lẽ tử-sinh ! Nội hàm
bài thơ ẩn chứa triết lý đạo Phật cao sâu và ngôn ngữ biểu hiện thì giàu hình ảnh
, đậm tính nghệ thuật .
Thiền sư đã đi từ tư duy trực
giác để hình thành nên một biểu tượng bất hủ, đó là “nhất chi mai” ( một cành
mai ).
- Hai câu đầu, tác giả nêu quy luật của tự
nhiên :
Xuân
đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa khai
Khi mùa xuân đi qua thì trăm
hoa rụng, khi mùa xuân về thì trăm hoa đua nở. Đây là quy luật tuần hoàn của tự
nhiên và là dòng chảy bất tận của thời gian. Lối diễn đạt giàu hình ảnh và cảm
xúc đã làm câu kệ vốn khô khan trở thành hay và đẹp biết bao !
- Hai câu tiếp theo là quy
luật của đời người :
Sự
đời trôi trước mắt
Trên
đầu tóc đã phai
Sự
đời vận động không ngừng qua trước mắt. Còn đối với con người, có sinh ắt có
tử, khỏe mạnh rồi cũng có lúc bệnh tật, có tuổi trẻ rồi sẽ đến tuổi già …
Sinh-lão-bệnh-tử, đây là một quy luật của kiếp nhân sinh, không thể khác đi
được. Triết lý ẩn chứa trong hai câu này là hãy yêu cuộc đời và chấp nhận nó
một cách than thản vì đây là lẽ thường tình, không có gì đáng sợ cả .
Có một vị thiền sư đã nói : “
Trước cái chết, điều khôn ngoan duy nhất mà con người có thể làm được là vui
lòng chấp nhận nó .”
- Bài thơ khép lại bằng hai
câu thất ngôn tuyệt bút mà người đời xưa nay thường ca tụng là những vần thơ
bất hủ :
Nào phải xuân tàn hoa rụng hết
Đêm
qua, sân trước một cành mai .
Hình
ảnh “nhất chi mai” ( một cành mai ) tượng trưng cho vẻ đẹp
tinh khiết, thanh cao của
thiên nhiên và con người. Trong bài thơ này, cành mai nở hoa trong buổi xuân
tàn đã được thiền sư lấy đó để thể hiện nhân sinh quan của một vị chân tu : Vạn
vật sinh ra, tồn tại rồi mất đi, đời người có sinh-lão-bệnh-tử … nhưng người tu
hành chân chính, đắc đạo có thể vượt ra khỏi vòng sinh tử như cành mai nở hoa
trong buổi xuân tàn, khi trăm hoa đã rụng hết .
Ngoài ra, hình ảnh cành mai
như một lời nhắc nhở đối với các đệ tử nói riêng và mọi người nói chung rằng :
Hãy sống thế nào để mọi lời nói và hành động của mình đều có thể đem lại hạnh
phúc, an vui cho người khác và như vậy mỗi người chúng ta đều có ngày sẽ đến
với mùa xuân trường cữu của cõi lòng mình.
Bài
Cáo tật thị chúng của Mãn Giác thiền sư đã đi suốt hành trình gần một thiên
niên kỷ và hình tượng “nhất chi mai” đã trở thành bất tử với thời gian. Ở đây, tầm
cao triết lý Phật giáo hòa quyện với chất thơ, được biểu hiện bằng những lời
thơ giàu hình tượng và cảm xúc , đậm tính nghệ thuật. Đúng là một tuyên ngôn
triết học ẩn ngữ dưới hình thức nghệ thuật văn chương .
Nhân ngày xuân, đọc lại bài thơ, chúng ta thêm
trân trọng tinh thần lạc quan yêu đời, thái độ ung dung tự tại của thiền sư
trước lẽ tử-sinh của cuộc đời, thôi thúc chúng ta vươn tới một cuộc sống có
ích, vì mọi người. Dẫu sau này có chết đi cũng chỉ là chết phần thể xác, còn sự
nghiệp và tiếng thơm sẽ sống mãi với thời gian như cành mai đã đi vào cõi
trường sinh. Xin mượn câu thơ sau đây của đại thi hào Nguyễn Du để thay lời kết
:
“ Thác là thể phách,
còn là tinh anh”.
( Truyện Kiều )
LÊ NGỌC THẠC
( P.Chủ Nhiệm CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP. Cao Lãnh-Đồng Tháp )
Xin trân trọng giới thiệu thêm 2
bản dịch bài thơ trên để quý thi hữu tham khảo :
Xuân đi muôn vạn hoa
tàn
Xuân về thắm lại ngập
tràn những hoa
Việc đời thế sự đi qua
Trên đầu tuyết điểm
một vài cọng sương
Chớ cho xuân hết hoa
tàn
Đêm qua sân trước nở
vàng cành mai .
TẢN ĐÀ dịch.
Xuân
đi trăm hoa rơi
Xuân đến trăm hoa nở
Việc đời qua trước
mắt
Già theo đến trên
đầu
Chớ bảo xuân qua hoa
rụng hết
Đêm qua sân trước
một nhành mai .
Hòa
Thượng THÍCH CHÂN TUỆ dịch .
CÂU ĐỐI TẾT-NÉT VĂN HÓA ĐẸP
NGÀY XUÂN
C âu đối là thể loại văn biền ngẫu, gồm 2 vế đối nhau
nhằm biểu thị tư tưởng, tình cảm của người viết trước một hiện tượng, một sự
việc nào đó trong cuộc sống. Câu đối là một trong những thể loại quan trọng của
nền văn học Việt Nam.
Nội dung câu đối bao trùm các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng ở đây chỉ xin
nêu đôi điều cảm nhận về những câu đối xuân hay, tiêu biểu mà thôi .
Tết đến, nhà nào cũng treo đèn kết
hoa, chuẩn bị bàn thờ gia tiên, chăm lo cành đào phương Bắc, chậu mai phương Nam,
cỗ bàn thật vừa ý. Thế nhưng Tết lại không thể thiếu câu đối Xuân được. Có
người tự viết câu đối, nhưng phần lớn là thuê viết và người làm công việc này
là những ông Đồ viết chữ đẹp.
Mỗi
năm hoa đào nở
Lại thấy ông
đồ già
Bày mực tàu
giấy đỏ
Bên phố đông
người qua
Bao nhiêu
người thuê viết
Tấm tắc ngợi
khen tài
“ Hoa tay
thảo những nét
Như phượng
múa rồng bay …”
( Ông đồ - Vũ Đình Liên
).
Câu đối Xuân ( Xuân liên ) nói riêng và câu đối nói
chung có thể chia làm 2 loại, căn cứ vào hình thức văn tự : Câu đối Hán-Việt và
câu đối thuần Việt .
I-CÂU ĐỐI HÁN-VIỆT
:
1- Câu đối cầu thọ, cầu phúc :
Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường
Nghĩa : Trời thêm tuổi mới, người thêm thọ
Xuân khắp trời đất, phúc khắp nhà .
Phước thâm tự hải
Lộc cao như sơn
Nghĩa : Hạnh phúc nhiều sâu như biển
Của cải nhiều cao như núi .
Tân
niên hạnh phúc bình an tiến
Xuân nhật vinh hoa phú quý lai
Nghĩa : Năm mới hạnh phúc bình an đến
Ngày xuân vinh hoa phú quý về .
Phước lộc thọ tam tinh cùng chiếu
Thiên địa nhân nhất thể đồng xuân
Nghĩa : Ba vì sao phước, lộc, thọ đều cùng chiếu
sáng
Trời, đất, con người cả ba đều hưởng xuân .
Môn đa khách đáo thiên tài đáo
Gia hữu nhân lai vạn vật lai
Nghĩa : Cửa nhiều khách đến, nhiều tiền đến
Nhà có người vào, lắm vật vào .
2- Câu đối bày tỏ lòng biết ơn của con cháu
đối với tổ tiên:
Tuế
hữu tứ thời xuân tại thủ
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên
Nghĩa : Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân
Người có trăm tính, tính hiếu thảo cần trước hết .
Tổ tông công đức thiên niên thịnh
Tôn tử hiếu hiền vạn đại lưu
Nghĩa : Công đức tổ tiên ngàn năm thịnh
Hiếu hiền con cháu vạn đời lưu .
3- Câu đối ca ngợi cảnh sắc mùa xuân và
niềm vui năm mới :
Sơn thủy thanh cao xuân bất tận
Thần tiên lạc thú
cảnh trường sinh
Nghĩa : Non nước thanh
cao xuân mãi mãi
Thần tiên vui thú cảnh đời đời .
Xuân
phong yểm ánh thiên niên liễu
Noãn vũ tình
khai nhất kính hoa
Nghĩa : Gió xuân phất phơ
bóng liễu ngoài trước ngõ
Mưa
tạnh rồi hoa nở đầy mặt gương .
Đào hạnh mãn viên xuân tự cẩm
Chi lan nhiễu
thế tọa ngưng hương
Nghĩa : Hoa đào, hoa hạnh
nở đầy vườn, xuân đẹp như gấm vóc
Cỏ
lan, cỏ chỉ mọc quanh thềm, chỗ ngồi ngát hương.
Phương
thảo xuân hồi y cựu lục
Mai hoa thời
đáo tự nhiên hương
Nghĩa : Mùa xuân trở lại,
đám cỏ thơm xanh biếc như xưa
Đến lúc hoa mai về, tự nhiên có hương
thơm .
Bách
lý xuân phong hồi thảo dã
Tứ thời hòa
khí cập thương sinh
Nghĩa : Gió xuân từ trăm
dặm thổi về chốn đồng quê
Mong cho bốn mùa đều có hòa khí phổ cập đến .
Trên đây là những câu đối
Hán-Việt tiêu biểu, thường được nhắc đến.
Việc xác định tác giả cho
các câu đối này gặp rất nhiều khó khăn. Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên câu
đối cổ thường bị khuyết danh hoặc bị lẫn lộn về tên tác giả . Ví dụ như để được
trân trọng, người ta hay nhờ các danh nho viết hộ rồi để tên mình, sau đó đem
tặng cho người khác. Vì vậy, xin được phép không thể nêu tên tác giả của những
câu đối Hán-Việt đã trích dẫn .
I- CÂU ĐỐI THUẦN VIỆT :
Câu đối thuần Việt thì rất nhiều,
nhưng ở đây xin trích dẫn một số câu đối tiêu biểu của các nhà thơ nổi tiếng ở
nước ta có liên quan đến ngày Xuân .
1- Bà Huyện
Thanh Quan ;
Duyên với văn chương nên dán chữ
Nợ cùng trời đất phải trồng nêu .
2- Hồ Xuân Hương
:
Tối ba mươi, khép cánh kiền khôn,
ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới;
Sáng mồng một, lỏng then tạo hóa,
mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân vào .
( Đây là một trong những câu đối tuyệt bút của văn học
Việt Nam
).
3- Nguyễn Công Trứ :
- Tết đến không tiền lo chi Tết
Xuân về hết gạo đón chi Xuân .
- Tết có cóc gì
đâu, uống một vài be củ tỏi
Nợ đâm ương ra đó, nói ba bốn chuyện cà riềng
.
- Chiều
ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa ;
Sáng mồng một, rượu say túy
lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
- Chọc trời ngất một cây nêu, tối ba mươi ri là Tết ;
Vang đất đùng
ba tiếng pháo, rạng mồng một rứa cũng Xuân .
( Những câu đối này, Nguyễn Công
Trứ viết lúc còn hàn vi. )
4- Trần Tế Xương ( Tú Xương ) :
- Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ ;
Cây nêu, tràng pháo,
bánh chưng xanh .
( Đây là câu đối quen thuộc, ai cũng biết ).
- Thiên hạ xác rồi, còn đốt pháo;
Nhân tình bạc
thế, lại bôi vôi .
( Tập tục nước ta ngày xưa là đốt pháo vào dịp Tết,
tối ba mươi tháng chạp lại rắc vôi hình cánh cung ở ngoài ngõ để trừ tà ma. Câu
đối còn có ý than thở cho thế thái nhân tình .)
- Nực cười thay !
Nêu không, pháo không, vôi bột cũng không,mà Tết ;
Thôi cũng được! Rượu có, nem có, bánh
chưng đều có, thừa Xuân .
- Đì đẹt ngoài sân, tràng pháo chuột
Lập lòe trên
vách, bức tranh gà .
- Không dưng Xuân đến chi nhà tớ
Có lẽ trời nào
đóng cửa ai .
- Xuân về chớ để
xuân đi, thương kẻ quạt nồng cùng ấp lạnh ;
Năm mới khác gì
năm cũ, van người bán muối với mua vôi .
5- Nguyễn Khuyến :
- Tối
ba mươi, giơ cẳng đụng cây nêu, ủa Tết ;
Sáng mồng
một, lắng tai nghe tiếng pháo, ờ Xuân .
( Cụ Tam Nguyên Yên Đỗ khi về già thì đôi mắt gần như
bị lòa nên cụ mượn lời một người mù ngớ ngẩn, nghe cũng buồn cười ).
-
Tết đến, rượu ngon đưa mấy chén
Xuân về, bút
mới thử vài trang .
-
Tranh pháo vui xem đàn trẻ nhỏ
Tóc râu thêm
sợi tuổi trời cao .
- Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết ;
Ứơc gì nhỉ,
một năm mười hai tháng, cả bốn mùa Xuân .
- Tối ba mươi nợ réo tít mù, ờ ờ Tết ;
Sáng mồng một
rượu say túy lúy, à à Xuân .
- Chúng nó dại vô
cùng, pháo nổ đì đùng thêm mất chó;
Ông đây khôn
bất trị, rượu say túy lúy lại nằm mèo .
6- Vài câu
đối Xuân độc đáo, xem cho vui :
- Năm
chuột đi, cháy nhà vẫn không ra mặt chuột ;
Tết trâu đến,
gảy đàn liệu có lọt tai trâu ?
(
GS. Văn Như Cương-Viết năm 2009 )
-
Tết túng tiền tiêu, toan tính tìm tay tử tế ;
Xuân xài xu xịn, xong xuôi xuống xưởng xác xơ.
( Khuyết danh )
- Thầy giáo tháo giầy đi chợ Tết ;
Giáo chức dứt
cháo dự hội Xuân .
( Khuyết danh )
Ngày nay, cuộc sống đã có rất nhiều thay đổi theo
hướng công nghiệp hóa,hiện đại hóa. Trong nhịp sống hối hả đó, vào mỗi dịp Tết
đến, người ta vẫn còn thấy xuất hiện bên trong các chợ và trên vỉa hè thành phố
hình ảnh ông Đồ rất đẹp. Ông ngồi trên đôi gót chân, tay cầm bút lông chấm vào
mực Tàu dằm trong cái nghiên rộng. Rất nhiều người vây quanh ông để nhờ viết
chữ hoặc câu đối Xuân về dán trong nhà mừng năm mới .
Hàng năm, như đã thành thông lệ
đẹp vào những ngày Tết, tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám ( Hà Nội ) lại tổ chức thư
pháp, thư họa . Dịp này một số danh nho và nhà viết thư pháp nổi tiếng như Bùi
Hạnh Cẩn, Lê Xuân Hòa, Nguyễn Văn Bách, Trần Lê Văn … được mời đến viết câu đối
Tết. Hương xưa khơi dậy, thu hút hàng ngàn người Việt Nam cùng khách quốc tế
tham gia và chiêm ngưỡng .
Thời gian trôi đi như dòng chảy
bất tận, nhưng hình ảnh ông Đồ vẫn còn đó và sống mãi trong thơ ca. Còn câu đối
Xuân và câu đối nói chung luôn là những viên ngọc quý trong kho tàng văn học,
một nét văn hóa đẹp trong đời sống dân tộc Việt Nam. LÊ NGỌC THẠC
(P.Chủ Nhiệm CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP. Cao Lãnh-Đồng Tháp)
TRONG THƠ
V ăn
học nói chung và thơ nói riêng là một loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ làm
chất liệu.
“Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học.”
( Macxim Gorki ).
Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc, phong phú; vừa giàu hình ảnh, sắc màu vừa giàu nhạc điệu. Ngôn ngữ sau khi được chọn lọc, chúng còn được kết hợp, sắp xếp theo những hình thức nhất định để sáng tạo nên hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa; mang cảm xúc thẩm mỹ đến cho người đọc.
Vì vậy để có câu thơ, bài thơ hay; ngoài vốn từ phong phú, người làm thơ cần phải biết kết hợp các biện pháp tu từ trong cách diễn đạt.
Trong phạm vi bài viết này, tôi xin được phép cùng với các thi hữu nhận dạng các biện pháp tu từ cơ bản, thường gặp trong thơ. Thông qua đó, chúng ta có thể tham khảo và vận dụng ở một mức độ nhất định trong việc sáng tác của mình.
I- KHÁI NIỆM:
“Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học.”
( Macxim Gorki ).
Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc, phong phú; vừa giàu hình ảnh, sắc màu vừa giàu nhạc điệu. Ngôn ngữ sau khi được chọn lọc, chúng còn được kết hợp, sắp xếp theo những hình thức nhất định để sáng tạo nên hình tượng thơ lung linh, đa nghĩa; mang cảm xúc thẩm mỹ đến cho người đọc.
Vì vậy để có câu thơ, bài thơ hay; ngoài vốn từ phong phú, người làm thơ cần phải biết kết hợp các biện pháp tu từ trong cách diễn đạt.
Trong phạm vi bài viết này, tôi xin được phép cùng với các thi hữu nhận dạng các biện pháp tu từ cơ bản, thường gặp trong thơ. Thông qua đó, chúng ta có thể tham khảo và vận dụng ở một mức độ nhất định trong việc sáng tác của mình.
I- KHÁI NIỆM:
Biện pháp tu từ là cách sử dụng các phương
tiện ngôn ngữ, nhằm đạt tới hiệu quả diễn đạt hay, đẹp, biểu cảm, hấp dẫn cho
tác phẩm.
II- CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ THƯỜNG GẶP:
II- CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ THƯỜNG GẶP:
1- SO SÁNH TU TỪ:
So sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một nét tương đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên trong để tạo nên cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người đọc.
Thí dụ:
- Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
(Đêm ngủ ở Côn Sơn-Trần Đăng Khoa)
- Như chiếc đảo bốn bề chao ngọn sóng
Hồn tôi vang tiếng vọng cả hai miền.
(Bài thơ tháng bảy-Tế Hanh)
- Trường Sơn chí lớn ông cha
Cửu Long lòng mẹ bao la sóng trào.
(Nguyễn Văn Trỗi- Lê Anh Xuân)
Có thể một đối tượng được so sánh với nhiều sự vật khác nhau;
- Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
(Ca dao)
Trong bài Quê hương, nhà thơ Đỗ Trung Quân đã đem một khái niệm trừu tượng là quê hương so sánh với nhiều sự vật rất đỗi thân thương và gần gũi như:
- Chùm khế ngọt
- Con diều biếc
- Cầu tre nhỏ
- Con đò nhỏ
- Đường đi học
- Như là chỉ một mẹ thôi...
Sự so sánh trên gợi nhớ nhiều kỷ niệm thiêng liêng, làm cho người đọc tự do liên tưởng, cảm nhận về quê hương theo những cảm xúc và ký ức của riêng mình. Quê hương là tất cả. Vì thế bài thơ đã nhanh chóng được độc giả yêu thích, đặc biệt là các bạn trẻ.
So sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một nét tương đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên trong để tạo nên cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người đọc.
Thí dụ:
- Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
(Đêm ngủ ở Côn Sơn-Trần Đăng Khoa)
- Như chiếc đảo bốn bề chao ngọn sóng
Hồn tôi vang tiếng vọng cả hai miền.
(Bài thơ tháng bảy-Tế Hanh)
- Trường Sơn chí lớn ông cha
Cửu Long lòng mẹ bao la sóng trào.
(Nguyễn Văn Trỗi- Lê Anh Xuân)
Có thể một đối tượng được so sánh với nhiều sự vật khác nhau;
- Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
(Ca dao)
Trong bài Quê hương, nhà thơ Đỗ Trung Quân đã đem một khái niệm trừu tượng là quê hương so sánh với nhiều sự vật rất đỗi thân thương và gần gũi như:
- Chùm khế ngọt
- Con diều biếc
- Cầu tre nhỏ
- Con đò nhỏ
- Đường đi học
- Như là chỉ một mẹ thôi...
Sự so sánh trên gợi nhớ nhiều kỷ niệm thiêng liêng, làm cho người đọc tự do liên tưởng, cảm nhận về quê hương theo những cảm xúc và ký ức của riêng mình. Quê hương là tất cả. Vì thế bài thơ đã nhanh chóng được độc giả yêu thích, đặc biệt là các bạn trẻ.
So sánh tu từ khác với so sánh luận lý. Nếu như so sánh tu từ nhằm mục
đích gợi lên hình ảnh tương đồng giữa các đối tượng, từ đó tạo nên xúc cảm thẩm
mỹ; thì so sánh luận lý chỉ đơn thuần cho thấy sự ngang bằng hay hơn kém giữa
các đối tượng mà thôi.
2- ẨN DỤ:
Ẩn dụ là cách gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng quen thuộc nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Ẩn dụ thực chất là so sánh ngầm (ví ngầm), trong đó yếu tố so sánh ẩn đi, chỉ còn yếu tố làm chuẩn so sánh được nêu lên.
Thí dụ:
- Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
2- ẨN DỤ:
Ẩn dụ là cách gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng quen thuộc nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Ẩn dụ thực chất là so sánh ngầm (ví ngầm), trong đó yếu tố so sánh ẩn đi, chỉ còn yếu tố làm chuẩn so sánh được nêu lên.
Thí dụ:
- Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
(Viếng lăng
Bác-Viễn Phương)
- Mặt trời của bắp nằm ở trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ-Nguyễn Khoa Điềm)
- Gìn vàng giữ ngọc cho hay
- Mặt trời của bắp nằm ở trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ-Nguyễn Khoa Điềm)
- Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho
đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
- Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
(Ca dao)
- Tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài
Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây.
(Ca dao)
* Giếng sâu: Tình cảm chân thật, sâu sắc.
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
- Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
(Ca dao)
- Tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài
Ai ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây.
(Ca dao)
* Giếng sâu: Tình cảm chân thật, sâu sắc.
* Dây dài: Vun đắp tình
cảm.
* Giếng cạn: Tình cảm hời hợt.
* Sợi dây: Tiếc công vun đắp tình cảm.
* Giếng cạn: Tình cảm hời hợt.
* Sợi dây: Tiếc công vun đắp tình cảm.
Quy luật diễn đạt của ẩn dụ
là: Câu nói có vẻ xa xôi, bóng gió nhưng lại rất gần, rất cụ thể. Lấy xa để nói
gần, lấy vòng vo để nói thẳng, lấy kín nói hở, lấy ít nói nhiều ...
Bài ca dao sau đây thể hiện rất rõ quy luật diễn đạt của biện pháp ẩn dụ tu từ:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Bài ca dao sau đây thể hiện rất rõ quy luật diễn đạt của biện pháp ẩn dụ tu từ:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai
vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
(Ca dao)
Ẩn dụ làm cho câu thơ thêm giàu hình ảnh, mang tính hàm súc. Cùng một đối tượng, nhưng có thể có nhiều cách diễn đạt khác nhau ( ANH và EM có thể diễn đạt thành: Thuyền-biển, mận-đào, thuyền-bến, biển-bờ ....).
Ẩn dụ luôn chứa những hàm ý mà ta phải suy ra mới hiểu, vì thế nó dễ lôi cuốn người đọc. Tuy nhiên, ẩn dụ dùng quen dễ trở thành sáo mòn. Do vậy, người làm thơ phải cách tân những ẩn dụ đã sáo mòn bằng những hình ảnh mới. Muốn có phép ẩn dụ thì giữa hai sự vật được so sánh ngầm phải có nét tương đồng quen thuộc, nếu không hình ảnh ẩn dụ sẽ trở nên khó hiểu.
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.
(Ca dao)
Ẩn dụ làm cho câu thơ thêm giàu hình ảnh, mang tính hàm súc. Cùng một đối tượng, nhưng có thể có nhiều cách diễn đạt khác nhau ( ANH và EM có thể diễn đạt thành: Thuyền-biển, mận-đào, thuyền-bến, biển-bờ ....).
Ẩn dụ luôn chứa những hàm ý mà ta phải suy ra mới hiểu, vì thế nó dễ lôi cuốn người đọc. Tuy nhiên, ẩn dụ dùng quen dễ trở thành sáo mòn. Do vậy, người làm thơ phải cách tân những ẩn dụ đã sáo mòn bằng những hình ảnh mới. Muốn có phép ẩn dụ thì giữa hai sự vật được so sánh ngầm phải có nét tương đồng quen thuộc, nếu không hình ảnh ẩn dụ sẽ trở nên khó hiểu.
3- HOÁN DỤ:
Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên của sự vật, hiện tượng, khái niệm có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Có 4 kiểu hoán dụ thường gặp:
a- Lấy một bộ phận để gọi toàn thể.
b- Lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng.
c- Lấy dấu hiệu sự vật để gọi sự vật.
d- Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng.
Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên của sự vật, hiện tượng, khái niệm có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Có 4 kiểu hoán dụ thường gặp:
a- Lấy một bộ phận để gọi toàn thể.
b- Lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng.
c- Lấy dấu hiệu sự vật để gọi sự vật.
d- Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng.
Thí dụ:
- Đầu xanh đã tội tình gì ?
- Đầu xanh đã tội tình gì ?
Má
hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
* Đầu xanh: Tuổi trẻ.
* Má hồng: Người con gái đẹp, nàng Kiều.
- Áo chàm đưa buổi phân ly
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
* Đầu xanh: Tuổi trẻ.
* Má hồng: Người con gái đẹp, nàng Kiều.
- Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
(Việt Bắc-Tố Hữu)
* Áo chàm: Đồng bào dân tộc ở Việt Bắc.
- Sen tàn cúc lại nở hoa
(Việt Bắc-Tố Hữu)
* Áo chàm: Đồng bào dân tộc ở Việt Bắc.
- Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
* Sen: Mùa hạ.
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
* Sen: Mùa hạ.
* Cúc: Mùa thu.
- Bàn tay ta làm nên tất cả
- Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.
(Bài ca vỡ đất-Hoàng Trung Thông)
* Bàn tay: Người lao động.
- Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá.
(Bài ca vỡ đất-Hoàng Trung Thông)
* Bàn tay: Người lao động.
- Một viên gạch hồng Bác chống lại cả một mùa băng giá.
(Người di tìm hình của nước-Chế Lan Viên) * Viên gạch hồng: Nghị lực thép, ý chí
thép.
* Mùa băng giá: Mùa đông.
* Mùa băng giá: Mùa đông.
- Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
(Tương
tư-Nguyễn Bính).
* Thôn Đoài, thôn Đông:Chàng trai thôn Đoài, cô gái thôn Đông.
Cũng giống như ẩn dụ, hoán dụ tu từ làm tăng sức gợi
hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. Hai biện pháp này là sự sáng tạo của cá nhân, do
đó nghĩa tu từ mang tính tạm thời, phụ thuộc hoàn toàn vào văn cảnh. Nếu tách
khỏi văn cảnh, nghĩa tu từ sẽ mất đi.
4- NHÂN HÓA:
Nhân hóa là cách gọi hoặc miêu tả con vật, cây cối, đồ vật, hiện tượng
thiên nhiên bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người; làm cho
chúng trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của
con người. Từ nhân hóa nghĩa là trở thành người.
Biện pháp nhân hóa sẽ đưa các đối tượng không phải là con người sang thế
giới con người. Khi được khoác áo con người, chúng sẽ trở nên sinh động, giúp
mở rộng tối đa sự liên tưởng của người đọc.
Thí dụ:
- Bác giun đào
đất suốt ngày
Hôm qua chết dưới bóng cây sau nhà. (Đám ma bác giun-Trần Đăng Khoa)
- Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Hôm qua chết dưới bóng cây sau nhà. (Đám ma bác giun-Trần Đăng Khoa)
- Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
(Đoàn thuyền đánh cá-Huy Cận)
- Trong gió trong mưa
(Đoàn thuyền đánh cá-Huy Cận)
- Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng gác
Cho thắng lợi
Nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía trước.
(Ngọn đèn đứng gác-Chính Hữu)
Cho thắng lợi
Nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía trước.
(Ngọn đèn đứng gác-Chính Hữu)
Bằng biện pháp nhân hóa, người ta có thể bộc lộ tâm tư của mình một cách kín đáo. Trong nhiều trường hợp, người ta dùng nhân hóa làm phương tiện, làm cái cớ để thể hiện tình cảm riêng, sâu kín của mình.
- Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
(Ca dao)
- Em hỏi cây kơ-nia
Gió mày thổi về đâu?
Về phương mặt trời mọc ...
(Bóng cây kơ-nia-Thơ dân tộc Hơ-Rê)
- Khăn thương nhớ ai
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
(Ca dao)
- Em hỏi cây kơ-nia
Gió mày thổi về đâu?
Về phương mặt trời mọc ...
(Bóng cây kơ-nia-Thơ dân tộc Hơ-Rê)
- Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất?
Khăn thương nhớ ai
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai?
(Ca dao)
Nhân hóa làm câu thơ, bài thơ thêm gợi cảm, làm cho thế giới đồ vật, cây cối, con vật được gần gũi với con người hơn.(Ca dao)
5- ĐIỆP NGỮ:
Điệp ngữ là nhắc đi
nhắc lại một từ, một ngữ trong câu thơ, bài thơ. Điệp ngữ vừa để nhấn mạnh ý,
vừa tạo cho câu thơ, bài thơ giàu âm điệu, giọng thơ trở nên tha thiết hoặc hào
hùng, mạnh mẽ
Thí dụ:
- Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thí dụ:
- Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh
những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
(Chinh phụ ngâm-Đoàn Thị Điểm)
- Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
(Chinh phụ ngâm-Đoàn Thị Điểm)
- Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi Ông
Nghè có kém ai!
(Tiến sĩ giấy-Nguyễn Khuyến)
- Trời xanh đây là của chúng ta
(Tiến sĩ giấy-Nguyễn Khuyến)
- Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là
của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa ...
(Đất nước-Nguyễn Đình Thi)
- Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Những cánh đồng thơm ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa ...
(Đất nước-Nguyễn Đình Thi)
- Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn
mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.
(Tây tiến-Quang Dũng)
Điệp ngữ tu từ hoàn toàn khác với cách viết trùng lặp do nghèo nàn về vốn từ hoặc không nắm chắc cú pháp. Cách viết lặp là một trong những lỗi cơ bản về câu.
6- CHƠI CHỮ:
Chơi chữ là cách vận dụng ngữ âm, ngữ nghĩa của từ để tạo ra những cách hiểu bất ngờ, thú vị.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.
(Tây tiến-Quang Dũng)
Điệp ngữ tu từ hoàn toàn khác với cách viết trùng lặp do nghèo nàn về vốn từ hoặc không nắm chắc cú pháp. Cách viết lặp là một trong những lỗi cơ bản về câu.
6- CHƠI CHỮ:
Chơi chữ là cách vận dụng ngữ âm, ngữ nghĩa của từ để tạo ra những cách hiểu bất ngờ, thú vị.
1-
Dùng từ gần nghĩa, đồng nghĩa để chơi chữ:
- Nửa
đêm, giờ Tí, canh ba
Vợ tôi, con
gái, đàn bà, nữ nhi.
2- Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa:
2- Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa:
- Trăng
bao nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi
là núi non?
3- Dùng lối nói lái:
3- Dùng lối nói lái:
- Mang
theo một cái phong bì
Trong đựng cái
gì, đựng cái ĐẦU TIÊN.
- Con cò lửa đứng trước cửa lò
- Con cò lửa đứng trước cửa lò
Con cá đối nằm trong
cối đá.
4- Dùng từ đồng âm:
4- Dùng từ đồng âm:
- Bà già đi chợ cầu Đông
Bói xem một
quẻ lấy chồng lợi chăng?Thầy bói xem quẻ nói rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn!
- Trâu khát nước, bò xuống uống
Trê thèm mồi, lóc lên ăn.
Trong ca dao, thơ trào phúng, tuồng, chèo, cải lương (vai hề) … thường sử dụng nhiều lối chơi chữ rất độc đáo.
Trong ca dao, thơ trào phúng, tuồng, chèo, cải lương (vai hề) … thường sử dụng nhiều lối chơi chữ rất độc đáo.
Trên đây là những biện pháp tu
từ thường được sử dụng trong thơ ca. Khác với văn xuôi, thơ chỉ dùng một lượng
đơn vị ngôn ngữ hữu hạn để thể hiện cái vô hạn của cuộc sống. Vì vậy, ngôn ngữ
thơ là thứ ngôn ngữ chính xác, hàm súc, giàu hình ảnh, sắc màu và nhạc điệu, có
tác dụng gợi mở trí tưởng tượng.
Ngoài ra, ngôn ngữ thơ còn được kết hợp theo một cách đặc biệt, khác với cách sử dụng ngôn ngữ thông thường. Đó là các biện pháp tu từ để tạo nên những cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc.
Ngoài ra, ngôn ngữ thơ còn được kết hợp theo một cách đặc biệt, khác với cách sử dụng ngôn ngữ thông thường. Đó là các biện pháp tu từ để tạo nên những cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc.
Có cảm xúc tốt, có những tứ thơ
mới lạ, tích lũy vốn ngôn ngữ phong phú, đồng thời biết sử dụng đúng và thành
thạo các biện pháp tu từ … sẽ là những yếu tố cơ bản, cần thiết để người làm
thơ sáng tạo nên những tác phẩm hay, sống mãi với thời gian.
LÊ NGỌC THẠC
(P.Chủ Nhiệm CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP.Cao Lãnh-Đồng Tháp)
(P.Chủ Nhiệm CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP.Cao Lãnh-Đồng Tháp)
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét