Tác giả

             M  ùa xuân luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân. Trong dòng chảy của lịch sử văn học Việt Nam, mùa xuân cũng đã đi vào thơ ca của dân tộc từ cổ điển đến hiện đại và để lại nhiều thi phẩm sống mãi với thời gian.
              Trước thềm xuân Ất Mùi, tôi xin được phép cùng quý thi hữu đến với một vài bài thơ như thế, nhưng của một tác giả rất đặc biệt. Đó là Nhà vua-Thi nhân-Thiền sư-Phật hoàng Trân Nhân Tông.

               I- VÀI NÉT VỀ VUA TRẦN NHÂN TÔNG (1258-1308):

               Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh năm 1258, mất năm 1308, là con trưởng của vua Trần Thánh Tông. Ông lên ngôi trị vì năm 1279 và nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông để làm Thái Thượng Hoàng năm 1293.
               Ông là một vị minh quân, anh hùng dân tộc và là nhà tư tưởng lớn.
               - Ông đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân ta đánh tan quân Nguyên Mông hai lần, vào các năm 1285 và 1288.
               - Trong thời gian trị vì, nhà vua luôn chăm lo cuộc sống của muôn dân. Lúc bấy giờ, đời sống vật chất của nhân dân được ấm no; đời sống tinh thần được thoải mái, dân chủ được mở rộng.
               - Sau khi nhường ngôi lại cho Trần Anh Tông vào năm 1293, ông chuyên tâm nghiên cứu Phật học. Ông về núi Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) để tu hành và sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một hệ phái Phật giáo của nước Đại Việt.
               - Ngoài ra, ông còn là nhà văn hóa, nhà thơ lớn của dân tộc. Theo Đại Việt thông sử (Lê Quý Đôn) và Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú) thì Trần Nhân Tông đã để lại nhiều tác phẩm với các thể loại khác nhau được viết bằng 2 ngôn ngữ Hán và Nôm.

               II- BA BÀI THƠ XUÂN CỦA VUA TRẦN NHÂN TÔNG:

                Ba bài thơ sau đây được sáng tác bằng chữ Hán, theo thể Đường luật tứ tuyệt với ngôn ngữ hàm súc, tài hoa và đặc biệt là dưới ánh sáng của mỹ học Thiền tông.

Bài 1:                                                    XUÂN HIỂU

                                                      Thụy khởi khải song phi
                                                      Bất tri xuân dĩ quy
                                                      Nhất song bạch hồ điệp
                                                      Phách phách sấn hoa phi.

                                                                            TRẦN NHÂN TÔNG
                                                      BUỔI SỚM MÙA XUÂN

                                                       Ngủ dậy, ngỏ song mây
                                                       Xuân về vẫn chửa hay
                                                       Song song đôi bướm trắng
                                                       Phấp phới sấn hoa bay.

                                                                              NGÔ TẤT TỐ dịch.

         Có lẽ bài thơ này được viết lúc vua Trần Nhân Tông còn trẻ với tâm hồn tràn đầy niềm lạc quan yêu đời. Hình ảnh đôi bướm trắng tung tăng bay đến những đóa hoa đang tỏa hương, khoe sắc…đã vẽ nên bức tranh thủy mặc dạt dào sức xuân.
        Bài thơ chỉ có duy nhất một hình ảnh, đó là cánh của đôi bướm đang đập (ảnh động), làm thi nhân xốn xang, bất ngờ nhận ra mùa xuân đã về từ lúc nào không hay. Âm hưởng tiếng động “phách phách” như tiếng reo vui trong lòng của tác giả.
         Đây là bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, hồn nhiên, trong trẻo về cảnh buổi sớm mùa xuân thơ mộng và lãng mạn.

Bài 2:                                                    XUÂN CẢNH

                                                 Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
                                                 Hoa đường thiềm ảnh, mộ vân phi
                                                 Khách lai bất vấn nhân gian sự
                                                 Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
    
                                                                             TRẦN NHÂN TÔNG
                                                          CẢNH MÙA XUÂN

                                                 Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dầy
                                                 Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay
                                                 Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế
                                                 Cùng tựa lan can ngắm núi mây.

                                                                             GS. NGUYỄN HUỆ CHI dịch.

       Bài thơ viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, có lẽ được viết sau khi vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông vào năm 1293 để lên núi Yên Tử tu hành và sáng lập Thiền phái Trúc Lâm.
       Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong buổi chiều tà với những nét chấm phá sinh động:  Có am vắng, hoa dương liễu trổ dầy, tiếng chim kêu nhẩn nha, chậm rãi, trên bầu trời có mây chiều trôi bồng bềnh… Trong khung cảnh yên tĩnh ấy, có vị khách đến thăm. Nhưng khách không hỏi chuyện nhân gian thế sự mà lại ra đứng tựa lan can cùng với thi nhân lặng ngắm màu xanh mờ mịt ở phía chân trời xa.
      Vị khách “bất vấn nhân gian sự” không phải do thờ ơ, vô tâm đối với chuyện thế sự mà vì không có gì phải hỏi, không có gì phải bận tâm cả. Cuộc sống cứ trôi đi nhẹ nhàng, thanh bình như dòng chảy bất tận…và đó là quy luật tuần hoàn của tạo hóa. Chủ và khách cùng im lặng, cảnh vật và nhân tâm như hòa làm một. Trạng thái “không lời” ở câu kết mang đậm màu sắc triết lý Phật giáo cao sâu.

Bài 3:                                                      XUÂN VÃN

                                               Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
                                               Nhất xuân tâm tại bách hoa trung
                                               Như kim khám phá Đông hoàng diện
                                               Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

                                                                            TRẦN NHÂN TÔNG
                                                              XUÂN MUỘN

                                               Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không
                                               Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng
                                               Chúa xuân nay đã thành quen mặt
                                               Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng.

                                                                                NGÔ TẤT TỐ dịch.

          Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này có lẽ cũng được viết khi Trần Nhân Tông đã rời ngai vàng, lên núi Yên Tử và trở thành giáo chủ Thiền phái Trúc Lâm.
          Thời gian đi qua bài thơ này là cả một đời người. Thời tuổi trẻ của thi nhân, mỗi khi xuân về thì lòng rộn ràng gởi ở trăm hoa, lúc ấy Người chưa tường lẽ “sắc không”. Còn bây giờ thì đã ngộ ra, đã khám phá được bộ mặt của chúa xuân, hiểu rõ quy luật của tạo hóa “Như kim khám phá Đông hoàng diện”. Xuân tươi đẹp đấy, nhưng rồi xuân cũng tàn phai; hoa nở rồi hoa sẽ rụng… Thế nhưng xuân đi rồi xuân lại đến, hoa rụng rồi lại nở tươi. Vì vậy, dù ngồi thiền trên tấm đệm bằng cỏ bồ, ngắm cánh hoa rụng nhưng lòng thi nhân vẫn không xao động. Cái tâm của thiền sư giờ đây đã thanh tịnh một cách tuyệt đối.
         Lúc này, tuổi của ông đã cao và công phu thiền định đã đạt đến sự chứng ngộ, am tường lẽ “sắc không”, nên bài thơ thấm đẫm tư tưởng Phật giáo cao sâu, chúng ta chỉ có thể hiểu bằng trực cảm tâm linh, khó mà phân tích bằng lời được.

                                                                           x             x
                                                                                   x

          Trước thềm năm mới, đọc lại 3 bài thơ xuân của vua Trần Nhân Tông, chúng ta càng thêm trân trọng sự uyên bác và cảm xúc nghệ thuật dạt dào của Người. Những vần thơ dường như tỏa ra không khí ấm áp từ sức mạnh bên trong. Sức mạnh ấy kết tinh từ một cuộc đời luôn lo toan cho muôn dân không phút giây ngơi nghỉ, nay giao nhiệm vụ lớn lại cho lớp kế thừa, nhẹ nhàng bước vào cõi Thiền.
         Các bài thơ tuy viết bằng chữ Hán nhưng không quá khó hiểu, tất cả đều mang đậm tính nghệ thuật và hàm ẩn một tầm cao triết lý Phật giáo vô cùng sâu sắc.

                                                                                                 LÊ NGỌC THẠC
                                                               (PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP.Cao Lãnh-Đồng Tháp)
                                             PHAN VĂN TRỊ
                                         NHỮNG VẦN THƠ BÚT CHIẾN

             G iữa thế kỷ XIX, lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn chống thực dân Pháp gần ṃ̉ột thế kỷ... Ở Nam bộ, năm 1862 thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông, đến năm 1867 chiếm luôn ba tỉnh miền Tây và Nam kỳ lục tỉnh đã hoàn toàn rơi vào tay giặc.
               Cùng với phong trào chống Pháp mạnh mẽ của các sĩ phu và nhân dân, một dòng văn học yêu nước ở Nam bộ đã hình thành và phát triển với những ngôi sao sáng như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Thủ khoa Huân, Huỳnh Mẫn Đạt... Trên bầu trời sao ấy, Cử nhân Phan Văn Trị là một trong những tên tuổi xuất sắc nhất. Cả đời mình, ông đã sử dụng ngòi bút như vũ khí chống giặc và sự nghiệp sáng tác của ông gắn liền cùng cuộc bút chiến hết sức đặc biệt với Tôn Thọ Tường.
               Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin cùng quý thi hữu tìm hiểu một số bài thơ bút chiến tiêu biểu của ông. Qua đó, chúng ta cùng cảm nhận và thêm trân trọng tấm lòng, khí phách và tài năng của một nhà Nho yêu nước đất Nam kỳ lục tỉnh.

            I- VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI PHAN VĂN TRỊ (1830-1910):                                                           
                Phan Văn Trị sinh năm 1830 tại thôn Hưng Thạnh, huyện Bảo An, phủ Hoằng An, trấn Vĩnh Thanh ( nay là xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre). Khoảng năm 1847, ông đến làng Hanh Thông, Gia Định trú ngụ nhà người thân để học. Phan Văn Trị đỗ Cử Nhân khoa Kỷ Dậu, năm Tự Đức thứ 2 (1849), cùng khoa với Nguyễn Thông, nên thường được gọi là Cử Trị.
                  Sau khi đỗ đạt, ông không ra làm quan mà về dạy học ở làng Bình Cách (nay thuộc TX. Tân An, tỉnh Long An). Khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam bộ, theo phong trào “tỵ địa”, ông chuyển về ở hẳn tại huyện Phong Điền (Cần Thơ) dạy học, bốc thuốc và dùng thơ văn làm vũ khí chống Pháp cùng bọn tay sai.
                  Đức độ và tài năng của Phan Văn Trị đã làm cho nhiều người cảm phục. Trong đó có cai tổng Định Bảo là Lê Quang Chiểu xem ông như bậc thầy, nên đã giới thiệu người em gái con cô con cậu là Đinh Thị Thanh kết duyên cùng ông. Ông mất ngày 22.06.1910, thọ 80 tuổi. Hiện nay, khu lưu niệm của ông được tôn tạo khang trang tại Thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền, TP. Cần Thơ.
                 
             II- CUỘC BÚT CHIẾN VỚI TÔN THỌ TƯỜNG:
                              1- Tóm tắt cuộc bút chiến
                 Cuộc bút chiến giữa Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị diễn ra trên 10 năm, từ sau năm 1862 đến trước 1877. Tuy nhiên, sôi động nhất có lẽ là từ sau năm 1862 đến 1867, tức là sau khi Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam bộ đến trước khi Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây còn lại. Nó đã lôi cuốn đông đảo sĩ phu yêu nước vào cuộc như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt...
                  Cuộc bút chiến là sự đấu tranh quyết liệt giữa hai ý thức chính trị đối nghịch nhau. Phan Văn Trị là người phát ngôn của lực lượng yêu nước, còn đại diện cho những kẻ  bán nước cầu vinh là Tôn Thọ Tường.
                     Tôn Thọ Tường sinh năm 1825, trong một gia đình có thế lực. Cha là Tôn Thọ Đức, tuần phù tỉnh Bình Thuận; ông nội trước đây từng theo phò Nguyễn Ánh, có công to nên được nhà Nguyễn thờ phụng. Mặc dù không đỗ đạt gì, nhưng công bằng mà nói, Tôn Thọ Tường cũng có chút văn tài, từng tham gia Bạch Mai thi xã ở Gia Định và để lại nhiều thơ văn. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Tôn Thọ Tường là một trong nh̃ững người đầu tiên theo giặc. Y được Pháp trọng dụng và cất nhắc dần lên chức Đốc Phủ Sứ. Tôn Thọ Tường mất năm 1877 ở Hà Nội vì bệnh sốt rét.
                 Với tấm lòng yêu nước, lập luận sắc bén và đanh thép;  Phan Văn Trị đã vạch trần toàn bộ lời lẽ ngụy biện, đập tan luận điệu phản dân hại nước của Tôn Thọ Tường. Thắng lợi của Phan Văn Trị phản ánh thắng lợi của nhân dân ta đối với tư tưởng đầu hàng, phản động, tấn công vào tập đoàn tay sai của thực dân Pháp.
                 2- Giới thiệu những bài thơ bút chiến tiêu biểu:

BÀI 1:
                                                TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
                                                             (Bài xướng)
                                             Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
                                              Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
                                              Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
                                              Về Hán trau tria mảnh má hồng
                                              Son phấn thà cam dày gió bụi
                                              Đá vàng chi để thẹn non sông
                                              Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
                                              Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.
                                                                                    TÔN THỌ TƯỜNG

          Tôn phu nhân là em gái của Tôn Quyền (vua Đông Ngô). Vì tranh giành đất đai,Tôn Quyền theo kế Châu Du (Châu Công Cẩn) mời Lưu Bị qua Giang Đông nói gả em gái để kết tình lân bang, định dùng phục binh giết chết trong tiệc rượu. Thực hiện kế của Khổng Minh, Lưu Bị sang đất Ngô. Sự việc đến tai Ngô Quốc Thái, mẹ của Tôn Quyền. Biết đó là âm mưu xảo quyệt của con, bà mắng Tôn Quyền đã dùng kế tiểu nhân. Nhận thấy Lưu Bị là người có đạo đức, bà buộc Tôn Quyền phải giữ lời hứa và bà nhất quyết gả con gái cho Lưu Bị. Vì vậy, Tôn phu nhân phải theo chồng về đất Thục. Câu chuyện lấy trong Tam quốc chí. Tôn Thọ Tường xem việc y theo Pháp chẳng qua là chuyện tất nhiên như Tôn phu nhân quy Thục mà thôi. Bài thơ là một lời tuyên bố dứt khoát về lập trường theo giặc của y.

                                                 TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
                                                                (Bài họa)
                                               Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
                                               Mặt giã trời chiều biệt cõi Đông
                                               Khói tỏa vầng Ngô ùn sắc trắng  
                                               Duyên về đất Thục đượm màu hồng
                                               Hai vai tơ tóc bền trời đất
                                               Một gánh cang thường nặng núi sông
                                               Anh hỡi, Tôn Quyền anh có biết
                                               Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng! 
                                                                                        PHAN VĂN TRỊ
BÀI 2:
                                                        TỪ THỨ QUY TÀO
                                                             (Bài xướng)
                                               Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi
                                               Muối xát lòng ai nấy mặn mòi
                                               Giúp Hớn hãy nhiều trang cột cả
                                               Về Tào chi sá một cây còi
                                               Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén
                                               Bịn rịn trông vua biếng giở roi
                                               Chẳng đặng khôn Lưu thà dại Ngụy
                                               Thân này xin gát ngoại vòng thoi.
                                                                                TÔN THỌ TƯỜNG

           Từ Thứ là một trong những danh sĩ có tài. Buổi đầu Từ Thứ giúp Lưu Bị đánh Tào Tháo. Tào Tháo dụ hàng không được, bèn bắt mẹ Từ Thứ tống giam rồi giả mạo viết bức tâm thư, lời lẽ thống thiết gởi cho Từ Thứ, bảo Từ Thứ về Tào. Ngỡ thư của mẹ thật, Từ Thứ không cầm lòng được, liền bỏ Lưu Bị về với Tào Tháo. Mẹ Từ Thứ hay tin, liền cắn lưỡi tự tử. Câu chuyện lấy trong Tam quốc chí.
           Mượn chuyện Từ Thứ, Tôn Thọ Tường muốn thanh minh rằng mình theo Pháp chẳng qua là chuyện chẳng đặng đừng, chứ cái tình đối với bạn bè cũ, cái nghĩa đối với đất nước vẫn còn nặng. Vả lại, dân tộc còn nhiều anh hùng (trang cột cả), một thân tài hèn sức mọn như y theo Pháp nào có đáng là bao (một cây còi)!
           Trong bài này, Tôn Thọ Tường đã tận dụng lợi thế của người xướng về cấu tứ và gieo vần, buộc người họa phải theo một khuôn khổ nhất định, không có lối phát triển. Năm vần được gieo vô cùng hiểm hóc (voi, mòi, còi, roi, thoi) rất khó họa, cũng còn nhằm mục đích hạn chế số người tham gia phản bác.

                                                      TỪ THỨ QUY TÀO
                                                              (Bài họa)
                                              Quá bị trên đầu nhát búa voi
                                              Kinh luân đâu nữa để khoe mòi
                                              Xăng văng ruổi Ngụy mây ùn đám
                                              Dáo dác xa Lưu gió thổi còi
                                              Đất Hứa nhớ thân sa giọt tủi
                                              Thành Tương mến chúa nhẹ tay roi
                                              Về Tào miệng ngậm như bình kín
                                              Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi.
                                                                                     PHAN VĂN TRỊ
BÀI 3:
                                                  BÀI TỰ THUẬT THỨ NHẤT
                                                              (Bài xướng)
                                              Giang san ba tỉnh hãy còn đây
                                              Trời đất xui chi đến nỗi này
                                              Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo
                                              Mây tuôn đen nghịt khói tàu bay
                                              Xăng văng chậm tính thương đôi chỗ
                                              Khấp khởi riêng lo biết những ngày
                                              Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc
                                              Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay.
                                                                                      TÔN THỌ TƯỜNG
          Đây là bài đầu tiên trong mười bài Tự thuật liên hoàn. Đối với Tôn Thọ Tường, ba tỉnh miền Đông tuy bị Pháp chiếm, nhưng vẫn chưa mất!!! Y ra sức quảng cáo cho văn minh Pháp (đường sắt, đường dây điện, tàu thủy...) để hù dọa nhân dân và lực lượng kháng chiến. Với kẻ địch hùng mạnh như thế thì không thể đánh thắng được!
                                                  BÀI TỰ THUẬT THỨ NHẤT
                                                                 (Bài họa)
                                              Hơn thua chưa biết đó cùng đây
                                              Chẳng đã nên ta mới thế này
                                              Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy
                                              Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay
                                              Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở
                                              Bủa lưới săn nai cũng có ngày
                                              Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ
                                              Lòng ta sắt đá há lung lay.
                                                                                                PHAN VĂN TRỊ

           Qua ba bài được trích dẫn, chúng ta thấy Tôn Thọ Tường hay mượn chuyện xưa, tích cũ của Trung Quốc, đưa chúng vào thơ để thanh minh cho hành vi theo giặc của mình. Nhưng tất cả những lời ngụy biện ấy đều bị vạch trần, đưa ra ánh sáng. Với ba bài họa, Cụ Cử Trị đã đẩy y vào chân tường, không còn lối thoát. Nhiều thế hệ nhân dân Nam bộ nói riêng và cả nước nói chung đã từng ngưỡng mộ và thuộc lòng những câu:
                                              Về Tào miệng ngậm như bình kín
                                              Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi.
                                                                                           (Từ Thứ quy Tào)
                                              Anh hỡi, Tôn Quyền anh có biết
                                              Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng.
                                                                                      (Tôn phu nhân quy Thục)
                                               Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ
                                               Lòng ta sắt đá há lung lay.
                                                                                        (Bài Tự thuật thứ nhất)
           Ở bài họa thứ 8 trong mười bài liên hoàn (thập thủ liên hoàn), Phan Văn Trị đã chua chát kết luận về Tôn Thọ Tường như sau:

                                               Đứa dại trót già đời cũng dại
                                               Lựa là tuổi mới một đôi mươi!
                                                                                          (Bài Tự thuật thứ tám)

            óm lại, với cuộc bút chiến có một không hai trong giai đoạn thực dân Pháp đang chiếm dần Nam kỳ Lục tỉnh; Phan Văn Trị đã quật ngã Tôn Thọ Tường trước nhân dân và lịch sử. Thắng lợi này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tiếp thêm sức mạnh cho phong trào kháng chiến ở Nam bộ nói riêng và cả nước nói chung. Những vần thơ đậm tính chiến đấu đã đưa ông trở thành ngôi sao sáng của dòng văn học yêu nước chống Pháp ở Nam bộ nửa sau thế kỷ XIX.
             Lúc sinh thời, ông đã từng mơ ước:
                                               Nhà Nước một mai xoay vận thới
                                               Cõi Nam chung hưởng hội thăng bình.
                                                                                                (Cảm hoài)
             Nhưng tiếc thay, con tim vĩ đại luôn thao thức vì vận nước ấy đã ngừng đập và ông đã lặng lẽ nằm xuống vĩnh viễn bên dòng kênh Cái Tắc hiền hòa, thuộc huyện Phong Điền (TP.Cần Thơ) khi quê hương chưa nở hoa độc lập.
                                                                                Leâ Ngoïc Thaïc
                                   (PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng TP.Cao Lãnh-Đồng Tháp)
THƠ TÚ XƯƠNG- NỤ CƯỜI VÀ NƯỚC MẮT 

 

                   Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương . Ông sinh ngày 05.09.1870 (tức 10.08 năm Canh Ngọ) ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Tỉnh Nam Định (Hiện nay là phố Hàng Nâu tức phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, Thành phố Nam Định) . Ông mất ngày 29.01.1907 lúc mới 37 tuổi .
                   Con đường khoa cử của Tú Xương vô cùng lận đận, chỉ đỗ Tú Tài khoa Giáp Ngọ (1894), còn lại đều hỏng cả 7 kỳ thi.    Thế nhưng, sự nghiệp văn chương của ông thì sống mãi, bất chấp sự thử thách nghiệt ngã của thời gian, đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã viết :
                                                        Ông Nghè ông Thám vô mây khói
                                                         Đứng lại văn chương một Tú Tài .
                   Nhiều người nghĩ Tú Xương chỉ là một nhà thơ trào phúng, điều này đúng nhưng chưa đủ. Đối với ông, bên cạnh tiếng cười còn có những nỗi niềm u uẩn, những giọt nước mắt cho mình và cho vận mệnh đất nước .
                   Cuộc đời 37 năm của nhà thơ nằm gọn trong một giai đoạn đau thương nhất của lịch sử dân tộc: Đó là mất nước!    Năm 1897, Pháp đặt nền móng cai trị trên đất nước ta. Chế độ thực dân nửa phong kiến được xác lập, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển ở một nước thuộc địa đã làm đảo lộn trật tự xã hội, đảo lộn những giá trị tinh thần của dân tộc .
                        I- THƠ ÔNG LÀ TIẾNG CƯỜI ĐẢ KÍCH SÂU CAY :
    1 - Đả kích bọn thực dân Pháp :
 - Đó là hình ảnh những ông Tây, bà Đầm nghênh ngang, lố bịch ở chốn trang nghiêm là trường thi :
                                                             Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
                                                             Váy lê quét đất mụ đầm ra .
                                                                                                (Vịnh khoa thi Hương)
                                                             Trên ghế bà Đầm ngoi đít vịt
                                                             Dưới sân cụ Cử ngỏng đầu rồng .
                                                                                                 (Giễu người thi đỗ)
       - Bọn thực dân với những trò gian ác, thủ đoạn nhơ bẩn để kiếm ăn :
                                                             Người quên mất thẻ âu trời cãi
                                                             Chó chạy ra đường có chủ lo
                                                              Ngớ ngẩn đi xia may vớ được
                                                              Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to .
                                                                                                              ( Ông cò )
   2- Đả kích bọn quan lại làm tay sai cho giặc :
                          - Đó là một lũ dốt nát, bất tài, làm trò không khác chi phường hát tuồng : 
                                    Sơ khảo khoa này bác Cử Nhu
                                                              Thực là vừa dốt lại vừa ngu
                                                              Văn chương nào phải là đơn thuốc
                                     Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu .
                                                                                    (Ông Cử Nhu) 
                                     Nào có ra chi lũ hát tuồng
                                     Cũng hò cũng hét cũng y uông .
                                                                                         (Hát tuồng)
 - Bọn quan lại chuyên ăn chơi, cờ bạc,  hối lộ, vợ lớn vợ bé, không hiểu trách nhiệm của mình trước nhân dân :
                                                              Ông về đốc học chẳng bao lâu
                                                              Cờ bạc rong chơi rặt một màu .
                                                                                                         (Chế ông Đốc học)
                                                              Chữ “y” chữ “chiểu” không phê đến
                                                              Ông chỉ quen phê một chữ “tiền” .
                                                                                                  (Đùa ông Phủ Xuân Trường)
                                                               Ví cho thi đỗ làm quan lớn
                                                               Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu .
                                                                                                                  (Cảm hứng)
              Ngoài ra, còn cả một xã hội lố lăng với những phu nhân, các cậu ấm, sư sãi … cũng bị ngòi bút Tú Xương phê phán .
                3- Đối với chế độ khoa cử và nền Nho học :
 - Đó là một nền Nho học đang suy tàn và hình ảnh trường thi thì không còn uy nghi, trang trọng như trước … Tất cả đang lùi dần trước uy thế của thực dân :
                                                               Cái học nhà nho đã hỏng rồi
                                                               Mười người đi học, chín người thôi .
                                                                                                                (Than đạo học)
                                                               Tấp tểnh người đi tớ cũng đi
                                                               Cũng lều cũng chõng cũng đi thi .
                                                                                                                 (Đi thi tự vịnh)
                                                               Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
                                                               Ậm ọe quan trường miệng thét loa .
                                                                                                           (Vịnh khoa thi Hương)
                 - Nhà thơ than thở cho số phận của các ông Nghè, ông Cống :
                                                               Nào có ra gì cái chữ Nho
                                                               Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co
                                                               Chi bằng đi học làm ông Phán
                                                               Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò .
                                                                                                                   (Chữ Nho)
                                                                Khăn khăn, áo áo thêm rầy chuyện
                                                                Bút bút, nghiên nghiên khéo giở trò .
                                                                                                                  (Đêm buồn)
                  4- Lên án mãnh lực của đồng tiền :
  - Đồng tiền đã làm xã hội đảo điên, đặc biệt là ở thành thị :
                                                                Giàu sang âu yếm tình quen thuộc
                                                                 Bần tiện thờ ơ dạ bạc đen
                                                                 Ví khiến trong tay tiền bạc có
                                                                 Nói dơi nói chuột, chán người khen .
                                                                                                                     (Thói đời)
                                                                 Kẻ yêu người ghét, hay gì chữ
                                                                 Đứa trọng thằng khinh, chỉ vị tiền .
                                                                                                                     (Thói đời)
                  - Xã hội tha hóa nghiêm trọng, tình cảm cha con, chồng vợ… bị chà đạp :
                                                                 Nhà kia lỗi phép, con khinh bố
                                                    Mụ nọ chanh chua, vợ chưởi chồng .
                                                                                                  (Đất Vị Hoàng)
                                                    Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
                                                    Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn .
                                                                                                (Phố Hàng Song)
      - Những cảnh chướng tai, gai mắt cứ lần lượt xuất hiện trước mắt nhà thơ :      
                                                                 Khăn là bác nọ to tày rế
                                                                 Váy lĩnh cô kia quét sạch hè
                                                                 Công đức tu hành sư có lọng
                                                                 Xu hào xủng xoảng mán ngồi xe .
                                                                                                                  (Năm mới)
              5- Đả kích những thói hư, tật xấu của xã hội :
                 - Phê phán những người tu hành mà có hành vi xấu, thậm chí phảỉ đi tù :
                                                                 Quảng đại từ bi cũng phải tù
                                                                 Hay là sư cũng vụng đường tu
                                                                 Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển
                                                                 Ý hẳn còn quên một phép phù .
                                                                                                                   (Sư ở tù)
                  - Phê phán những trò mê tín dị đoan, đồng bóng :
                                                                 Thấp thoáng bên đèn, lên bóng cậu
                                                                 Thướt tha dưới án, nguýt sư ông .
                                                                                                 (Ông sư và mấy ả lên đồng)
                                                                 Đồng giỏi sao đồng không giúp nước
                                                                 Hay là đồng sợ súng thần công .
                                                                                                                (Lên đồng)
                 - Cuối cùng, nhà thơ đã mượn lời chúc Tết để thể hiện sự căm phẫn của mình đối với thực trạng xã hội và con người :
                                                                 Bắt chước ai ta chúc mấy lời
                                                                 Chúc cho khắp hết ở trong đời
                                                                 Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước
                                                                 Sao được cho ra cái giống người !
                                                                                                                  (Chúc Tết)
                II- THƠ ÔNG LÀ TIẾNG KHÓC VÀ NỖI ĐAU TRƯỚC VẬN MỆNH ĐẤT NƯỚC :
1-     Tấm lòng của nhà thơ đôi với nhân dân lao động :
                                                                 Họ đày đọa mãi dân cày cuốc
                                                                 Ai xét soi cho cảnh học trò
                                                                 Mong được cơm no cùng áo ấm
                                                                 Gặp toàn nắng lửa với gió mưa .
                                                                                                       (Thề với người ăn xin)
2- Nỗi đau xót của bản thân :
- Đau buồn, chán nản cho cảnh thi hỏng vì cuộc đờì của Tú Xương luôn  gắn liền với nợ lều chõng :
                                                                 Học đã sôi cơm nhưng chửa chín
                                                                 Thi không ăn ớt thế mà cay …
                                                                 Một việc văn chương thôi cũng nhảm
                                                                 Trăm năm thân thế có ra gì !
                                                                                                                (Hỏng thi)
- Gia đình lâm vào cảnh nghèo túng, có lúc phải chạy ăn, vay nợ :
                                                                 Van nợ lắm khi tràn nước mắt
                                                                 Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi .
                                                                                                              (Than nghèo)
                                                                 Một tuồng rách rưới, con như bố
                                                                 Ba chữ nghêu ngao, vợ chán chồng .
                                                                                                    (Mùa nực mặc áo bông)
                     - Bà Tú đã phải tần tảo để nuôi chồng và năm con :

                                                                 Lặn lội thân cò khi quãng vắng
                                                                 Eo sèo mặt nước buổi đò đông .
                                                                                                               (Thương vợ)
                     3- Nỗi đau day dứt trước thời cuộc và vận mệnh đất nước ;
                       - Tình cảm đối với dân tộc, sự mong đợi vào tầng lớp sĩ phu yêu nước :
                                                                Nhân tài đất Bắc nào ai đó
                                                                Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà !
                                                                                                     (Vịnh khoa thi Hương)
                                                                Tình này ai thấu cho ta nhỉ
                                                                Tâm sự năm canh một bóng đèn .
                                                                                                                 (Dạ hoài)
                  - Ông từng trăn trở, suy tư suốt đêm dài, mong cho trời mau sáng và kỳ vọng vào một sự đổi thay :
                                                                Đêm sao đêm mãi tối mò mò
                                                                Đêm đến bao giờ mới sáng cho …
                                                                Hàng xóm bốn bề ai dậy chửa
                                                                Dậy thì lên tiếng gọi nhà Nho .
                                                                                                                  (Đêm dài)
                                                                Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn
                                                                Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn !
                                                                                                                  (Đêm hè)
                 - Nỗi niềm hoài cổ, nhớ khúc sông Vị Hoàng đã bị lấp đi để mở Tỉnh mà bản thân ông thì không làm gì để thay đổi thời cuộc được:
                                                                Sông kia rày đã nên đồng
                                                                Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
                                                                Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
                                                                Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò !
                                                                                                                 (Sông lấp)
                                                                Ai xui khiến vậy sông nên bãi
                                                                Bỗng chốc xoay ra phố nửa làng .
                                                                                                        (Vị Hoàng hoài cổ)
                - Khắc khoải trước vận nước nghiêng ngã, đôi lúc ông đâm ra lạc lõng, mất phương hướng :
                                                                Năm canh thức suốt cả năm canh
                                                                Nghĩ chuyện xa xa giật cả mình .
                                                                                                                  (Lo xa)
                                                                Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt
                                                                Đợi nước càng thêm tóc bạc phơ .
                                                                                                             (Lạc đường)
                  - Lòng yêu nước của Tú Xương còn thể hiện qua sự kính trọng và khâm phục đối với những người tài đức ra cứu nước . Ông đã dành những vần thơ đầy cảm xúc trữ tình cho nhà cách mạng Phan Bội Châu :
                                                               Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
                                                               Khi riêng, riêng cả đến tình chung .
                                                                                                   (Nhớ bạn phương trời)
                                                               Vá trời gặp hội mây trăm vẻ
                                                               Lấp bể ra công đất một hòn .
                                                                                                 (Gửi cụ Thủ khoa Phan)
                   Đọc lại thơ Tú Xương, ta thấy thơ ông là tiếng nói của tầng lớp nho sĩ yêu nước , không cam tâm theo giặc nhưng cũng không đủ sức cầm vũ khí chống giặc . Thơ có hai nội dung : Trào phúng và trữ tình hòa quyện với nhau. Lời thơ châm biếm sâu cay nhưng chứa đựng chất trữ tình, ngược lại chất trữ tình bao giờ cũng pha chút cười cợt. Trong giọng điệu trào phúng  ấy, nhìn kỹ vào bên trong thì đó là cười ra nước mắt, những giọt nước mắt đã rơi vì nỗi nhục mất nước .
                  Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ giản dị nhưng vô cùng điêu luyện, tài tình. Vì vây, sự nghiệp văn chương của ông vẫn sống mãi với thời gian . Xin mượn lời ai điếu sau đây của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến như một nén tâm hương tưởng nhớ đến Người :   
                                                               Kìa ai chín suối Xương không nát
                                                                Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn .                       

                                                                                        LÊ NGỌC THẠC     
                                                         (PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng Cao Lãnh-Đồng Tháp)

                                                          NHỚ CỤ TÚ XƯƠNG
                                            Bao phen lận đận kiếp nhân sinh                                 
                                                             Đất nước vào tay giặc viễn chinh
                                                             Xã hội đảo điên câu đạo nghĩa
                                                             Cuộc đời lơ láo chữ nhân tình
                                                             Quan trường một thuở khôn mong đợi
                                                             Sĩ khí ngàn đời khó lặng thinh
                                                             Ai hiểu tiếng cười đầy uất nghẹn
                                                             Cũng là giọt lệ khóc quê mình !      
                                                                                                              LÊNGỌC THẠC        
                                        NỖI BUỒN QUA THƠ
                                          BÀ HUYỆN THANH QUAN
                   
             Bà Huyện Thanh Quan ( 1805-1848 ) tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội . Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quí Thích .

             Chồng của Bà là Lưu Nghị, đỗ Cử Nhân năm 1821, từng làm Tri huyện Thanh Quan ( nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình ) nên người ta thường gọi bà là Bà Huyện Thanh Quan. Ông Lưu Nghị làm quan trải đến chức Bát Phẩm Thư Lại bộ Hình, nhưng mất sớm lúc 43 tuổi. Dưới thời vua  Minh Mạng, bà còn được mời về kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi .
              Thơ của Bà Huyện Thanh Quan để lại không nhiều. Theo Hợp Tuyển thơ văn Việt Nam ( tập III ) của Viện Văn học, xuất bản năm 1963 ; thì nữ sĩ chỉ để lại 7 bài thơ Nôm Đường luật. Đó là : Qua Đèo Ngang, Cảnh chiều hôm, Thăng Long hoài cổ, Nhớ nhà, Chùa Trấn Quốc, Cảnh đền Trấn Võ, Tức cảnh chiều thu .
               Đọc lai 7 bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy đây là những bức tranh thủy mặc chấm phá rất tài hoa, vừa cụ thể trước mắt vừa ước lệ vĩnh hằng. Trong thiên nhiên với cỏ cây hoa lá, non nước gió trăng, thuyền câu xóm chợ, con người và sinh vật … tác giả đã chọn được những nét đặc trưng, tiêu biểu cho từng bức tranh phong cảnh . Thế nhưng, nữ sĩ không phải chủ yếu là tả cảnh mà là mượn cảnh để gởi tình.
               Tình cảm dễ nhận dạng nhất trong thơ Bà Huyện Thanh Quan là nỗi buồn, tâm trạng cô đơn không được chia sẻ cùng ai :
                                                    Kẻ chốn Chương đài, người lữ thứ
                                                    Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn .
                                                                                         ( Cảnh chiều hôm )
                Ngay cả đối với thiên nhiên, nữ sĩ vẫn không tìm được sự giao hòa :
                                                    Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
                                                    Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường .
                                                                                       ( Thăng Long hoài cổ )
             Nhưng nỗi buồn tập trung nhất có lẽ ở bài thơ Qua Đèo Ngang. Hình tượng nữ sĩ đứng trên đỉnh Đèo Ngang trong buổi chiều tà là hình tượng độc đáo trong văn học cổ điển Việt Nam. Nỗi cô đơn đã được “tạc tượng” vào không gian và thời gian. Một tư thế cô đơn với tâm sự riêng mình :
                                                     Dừng chân dứng lại trời non nước
                                                     Một mảnh tình riêng ta với ta .
                                                                                          ( Qua Đèo Ngang )
            Về nỗi buồn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, từ trước đến nay đã có rất nhiều cách lý giải. Ở đây, tôi xin được phép giới thiệu hai trường phái khác nhau để quý thi hữu tham khảo :

   I- ĐÓ LÀ TÂM TRẠNG HOÀI LÊ :

              Bà Huyện Thanh Quan sống vào khoảng cuối Lê đầu Nguyễn. Cũng như phần lớn văn nhân thi sĩ lúc bấy giờ, bà mang lòng hoài vọng nhà Lê, điều này giống như Nguyễn Du .
              Tâm trạng hoài Lê thể hiện rõ rệt nhất trong bài Thăng Long hoài cổ . Kinh đô lúc bấy giờ không còn ở Thăng Long mà đã dời vào Phú Xuân ( Huế ). Đi ngang qua thành Thăng Long nay đã hoang phế, bà cảm thấy cuộc đời như tấn tuồng thay đổi nhanh chóng :
                                                     Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
                                                     Đến nay thấm thoát mấy tinh sương .
                                                                                            ( Thăng Long hoài cổ )
               Những lối đi phủ đầy cỏ mùa thu, nền cũ của cung điện, những phiến đá trơ gan, mặt nước hồ xưa như chau lại trước cảnh tang thương … Tất cả như còn phảng phất hình bóng của triều đại nhà Lê :
                                                      Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
                                                      Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
                                                      Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
                                                      Nước còn chau mặt với tang thương .
                                                                                             ( Thăng Long hoài cổ )
             Khi đến thăm chùa Trấn Quốc ở bên cạnh Hồ Tây, nơi mà các vua nhà Lê trước đây thường ra ngự để hóng mát; Bà đã bộc lộ nỗi lòng đối với nhà Lê thật chân thành và cảm động :
                                                      Trấn Bắc hành cung lắm dãi dầu
                                                      Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau
                                                      Mấy tòa sen rớt hơi hương ngự
                                                      Năm thức mây phong nếp áo chầu
                                                      Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
                                                      Chuông hồi kim cổ lắng càng mau .
                                                                                                 ( Chùa Trấn Quốc )
              Bà Huyện Thanh Quan sống vào thời Nho học đang hưng thịnh với những quan niệm như “Trung thần bất sự nhị quân” hoặc “trung quân” và “ái quốc” là một, mất vua cũng như mất nước . Hơn nữa, thời kỳ lịch sử Bà đang sống là thời Nguyễn sơ, cái mới và cũ đang giao thời, hệ thống cai trị có sẵn từ trước bị đảo lộn nên gây ra nhiều bất mãn cho đám cựu thần nhà Lê. Bà đã viết :
                                                      Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                                                      Thương nhà mỏi miệng cái gia gia .
                                                                                                ( Qua Đèo Ngang )
             Giọng điệu hai câu thơ giống như người mất nước. Nhưng thật ra nước có mất đâu ? Đất nước vẫn độc lập, chỉ có triều đại thay đổi mà thôi ! Như thế có nghĩa là nhà Lê mất cũng như nước mất. Bị lệ thuộc vào hoàn cảnh, vào tư tưởng thời đại, Bà đã mang cái tâm trạng của phần đông Nho sĩ đương thời là hoài Lê .
              Từ những luận cứ nêu trên, có thể đi đến kết luận : Nỗi buồn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan chính là tâm trạng nhớ về nhà Lê .

                            II- ĐÓ LÀ NỖI BUỒN CÁ NHÂN VÀ GIA ĐÌNH :

               Bà Huyện Thanh Quan và chồng là Lưu Nghị đều là quan Nhà Nguyễn. Chưa có tư liệu nào chứng minh sự gắn bó sâu nặng của gia đình Bà đối với vương triều nhà Lê. Bà sống khoảng những thập kỷ đầu của thế kỷ XIX dưới các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Bấy giờ vương triều nhà Nguyễn đã được khẳng định là một triều đại chính thống trong lịch sử, đủ tư cách đại diện cho quốc gia .
              Do đó, tâm trạng thương nhớ nhà Lê, không đậm đà với nhà Nguyễn có thể đúng với Nguyễn Du hoặc những nhà thơ khác có nhiều gắn bó với nhà Lê. Nhưng đối với Bà Huyện Thanh Quan thì chắc là không phải. Vì vậy tâm trạng u hoài, cô đơn của nữ sĩ chỉ có thể lý giải từ nguyên nhân khác .
           Về hoàn cảnh gia đình, chồng Bà là Lưu Nghị qua đời khá sớm ( năm 43 tuổi ), cảnh góa bụa đã khiến Bà đơn chiếc và luôn luôn nhớ về một dĩ vãng không bao giờ trở lại. Hơn nữa, những ngày xa nhà dù là đi làm quan, thì đối với một người phụ nữ cũng có biết bao nỗi niềm trăn trở.
           Chuyến đi xa nhà quan trọng nhất trong cuộc đời nữ sĩ có lẽ là chuyến đi từ miền Bắc vào Thuận Hóa để nhận chức Cung Trung Giáo Tập, dạy học cho các công chúa và cung phi .
            Hành trình khó khăn, đường xa vạn dặm, nhất là vào lúc chiều tà, đã làm cho Bà nặng lòng thương nhớ :
                                                       Ngàn mai lác đác chim về tổ
                                                       Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà
                                                       Còi mục thét trăng miền khoáng dã
                                                       Chài ngư tung gió bãi bình sa
                                                       Làng quê một bước đường ngao ngán
                                                       Mấy kẻ tình chung có thấu là ?
                                                                                                       ( Nhớ nhà )
              Giữa trời cao đất rộng, đồi núi chập chùng của Đèo Ngang; Bà liên tưởng đến cảnh quê nhà, nơi tổ ấm thân yêu giờ đây cũng tiêu điều, ủ rũ :
                                                       Lom khom dưới núi tiều vài chú
                                                       Lác đác bên sông chợ mấy nhà
                                                       Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                                                       Thương nhà mỏi miệng cái gia gia .
                                                                                                    ( Qua Đèo Ngang )
               Nữ sĩ bất chợt rùng mình trong cảnh chiều hôm với sương sa, gió cuốn. Nỗi buồn cô đơn luôn ám ảnh tâm hồn Bà :
                                                       Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
                                                       Dặm liễu sương sa khách bước dồn
                                                       Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ
                                                       Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn .
                                                                                                    ( Cảnh chiều hôm )
                Trong thời gian và không gian của buổi chiều tà, Bà cảm thấy bơ vơ trống trải, không biết bày tỏ tâm sự cùng ai :
                                                        Dừng chân đứng lại trời non nước
                                                        Một mảnh tình riêng ta với ta .
                                                                                                    ( Qua Đèo Ngang )
               Với tâm hồn đa sầu đa cảm luôn trĩu nặng nỗi buồn, nhưng Bà vẫn mong ước, khát khao một cuộc sống bình yên, một bầu không khí trong lành, rũ sạch ưu tư :
                                                        Êm ái chiều hôm tới Trấn dài
                                                        Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
                                                        Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng
                                                        Một vũng tang thương nước lộn trời
                                                        Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn
                                                        Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi
                                                        Nào nào cực lạc là đâu tá ?
                                                        Cực lạc là đây, chín rõ mười .
                                                                                                 ( Cảnh đền Trấn Võ )
                Mặc dù có hai bài thơ là Chùa Trấn Quốc và Thăng Long hoài cổ có ý nghĩa xã hội và tâm trạng trước sự hưng vong biến đổi của triều đại. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng Bà Huyện Thanh Quan đã từ bi kịch của cá nhân mình mà liên tưởng rộng ra đến những vấn đề của xã hội. Những thay đổi của thời cuộc có sức lay động rất lớn làm cho những ai có con tim dễ rung cảm cũng phải xót xa .
                Ngoài ra, theo các công trình nghiên cứu thì bài Thăng Long hoài cổ trước đây còn mang tên Qua chốn chồng làm quan cũ. Nếu thế thì càng chứng tỏ Bà Huyện Thanh Quan đang nghĩ về cảnh ngộ của mình, những kỷ niệm riêng tư và một thời gia đình hạnh phúc .
                
               Trên đây là hai ý kiến khác nhau về nỗi buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Tuy nhiên theo chúng tôi, trong thơ của nữ sĩ tồn tại cả hai tình cảm sâu đậm chứ không phải là một. Đó là ;
- Hoài vọng nhà Lê như phần đông các Nho sĩ đương thời .
                                 - Tâm trạng thương nhớ gia đình, quê hương, những kỷ niệm riêng tư của một thời gia đình hạnh phúc .
                  Hai tình cảm ấy hòa quyện vào nhau tạo nên một nỗi buồn, một tâm trạng cô đơn và được thể hiện qua những lời thơ buồn xa xôi, nhẹ nhàng và kín đáo .
                  Về nghệ thuật, Bà đã đem đến cho thơ Nôm luật Đường tiếng nói đài các, nghiêm nghị mà vẫn trong sáng, giản dị và trữ tình sâu đậm. Đặc điểm ấy là do nghệ thuật dùng từ, chọn âm thanh, sắp đặt nhịp điệu … rất điêu luyện của nữ sĩ. Nhưng quan trọng hơn, đó là những cảm xúc chân thành được gởi gắm vào từng bài thơ giúp nó sống mãi với thời gian .
                   Do có sự hòa hợp nhuần nhuyễn giữa hình thức và nội dung tuyệt vời như thế nên có thể khẳng định Bà Huyện Thanh Quan là một trong những thi sĩ làm thơ luật Đường hay nhất trong văn chương Việt Nam .

                                                                                                   LÊ NGỌC THẠC
                                                                    (PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng Cao Lãnh-Đồng Tháp)
                                                        QUA ĐÈO NGANG
                                   NHỚ BÀ HUYỆN THANH QUAN

   Tôi đến nơi đây cũng xế tà
     Đèo Ngang nữ sĩ đã từng qua
     Năm nào trăn trở màu cây cỏ
     Thuở ấy bâng khuâng nỗi nước nhà
      Muôn dặm ly hương sao lặng lẽ
      Đôi vần hoài cổ khó phôi pha
      Nay hoa độc lập xanh quê mẹ
      Cho mảnh tình xưa thôi xót xa !

                                          LÊ NGỌC THẠC .   

                                      ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN
                          VỀ MÀU SẮC NAM BỘ TRONG THƠ VĂN 
                                         CỤ NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU


   
          N guyễn Đình Chiểu sinh ngày 01.07.1822 ( 13.05 Nhâm Ngọ ) ở làng Tân Thới , huyện Bình Dương thuộc Gia Định Thành , nay là TP. Hồ Chí Minh .
          Ông đỗ Tú Tài năm 1843 nhưng lại lỡ khoa thi Kỷ Dậu tại Huế ( 1849 )  vì phải về chịu tang mẹ và sau đó lâm vào cảnh mù lòa lúc mới 27 tuổi. Theo phong trào " Tị địa " , ông rời Gia Định về Cần Giuộc ( Long An ) và tiếp tục về Ba Tri ( Bến Tre ) sống đến cuối đời .
                               Vì câu danh nghĩa phải đi ra
                               Day mũi thuyền nam dạ xót xa .
                                                                        ( Từ biệt cố nhân )
          Ô ng mở trường dạy học , bốc thuốc trị bệnh và sáng tác thơ văn . Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã đóng góp rất lớn cho dòng văn học yêu nước Nam bộ thời chống Pháp . Những tác phẩm tiêu biểu như : Lục Vân Tiên , Dương Từ Hà Mậu , Ngư Tiều y thuật vấn đáp , Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc , Văn tế Trương Định ... và nhiều bài thơ nổi tiếng khác .
          Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu có giá trị về nhiều mặt , nhưng ở đây chỉ xin nêu mấy suy nghĩ về màu sắc Nam bộ trong những sáng tác của Ông mà thôi .

                   1- DIỆN MẠO CỦA NAM KỲ LỤC TỈNH :
                Dưới ngòi bút góc cạnh , đậm đà của Ông ; đất trời Nam Kỳ Lục Tỉnh dần dần hiện ra qua các địa danh như : Đồng Nai , Bến Nghé , Gia Định , Gò Công , sông Cần Giuộc , chợ Trường Bình , chùa Tôn Thạnh ...
                   - Chạy giặc :
                           Bến Nghé của tiền tan bọt nước
                           Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây .
                   - Điếu Trương Định :
                           Đồng Nai , Chợ Mỹ lo nhiều phía
                           Bến Nghé , Sài Gòn kể mấy đông .
                   - Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh :
                           Trời Gia Định ngày chiều rạng ráng
                            Đất Biên Hòa đêm vắng trăng lờ ...
                            Gần Côn Lôn , xa Đại Hải , máu thây trôi nổi ai nhìn ...
                   - Văn tế Trương Định :
                            Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt , thương đấng anh hùng
                             gặp lúc gian truân ;
                            Đất Gò Công cây cỏ ủ ê , cám niềm thần tử hết lòng trung
                             ái  ...
                             Rạch Lá , Gò Công mấy trận , người thấy đã kinh ;
                             Cửa Khâu , Trại Cá , ai nghe chẳng hãi  .
                    - Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc :
                             Đoái sông Cần Giuộc , cỏ cây mấy dặm sầu giăng ;
                             Nhìn chợ Trường Bình , già trẻ hai hàng lụy nhỏ  ...
                             Chùa Tôn Thạnh năm canh ưng đóng lạnh , tấm lòng son
                             gởi lại bóng trăng rằm ...
           Bức tranh Nam Kỳ Lục Tỉnh được khắc họa bằng những từ ngữ " đặc sệt " chất Nam bộ như  :
                            - Thế đất : Gành , vực , bàu , vũng , vịnh , doi ...
                            - Con vật : Chim quành quạch , chù lắt ( chuột ) , rắn rồng ...
                            - Những từ khác : Vùa hương ( bát cắm hương ) , qua ( tôi ) ,
                             bậu ( bạn ) , kiểng ( cảnh ) , ngươn ( nguyên ) , chở  đạo
                             ( tải đạo ) ...
          Những từ ngữ trên gợi ta nhớ đến một đất Nam bộ còn hoang sơ của thời " khẩn hoang , lập ấp " nhưng vô cùng phong phú về sản vật thiên
 nhiên qua các câu ca dao :
                           - Cà Mau khỉ khọt trên bưng
                             Dưới sông sấu lội , trên rừng cọp um  .
                           - Chiều chiều quạ nói với diều
                              Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm  .
                           - Xứ Cần Thơ nam thanh nữ tú
                             Xứ Rạch Giá vượn hú chim kêu  .
                            - Rộng đồng mặc sức chim bay
                              Biển , hồ lai láng cá bầy đua bơi  .
                            - Trời xanh , kinh đỏ , đất xanh
                              Đỉa bu , muỗi cắn khiến anh nhớ nàng ...

        Thế nhưng , Nam Kỳ Lục Tỉnh giàu đẹp giờ đây đã đắm chìm trong  khói lửa chiến tranh và lần lượt rơi vào tay thực dân Pháp ( ba tỉnh miền Đông vào năm 1862 , ba tỉnh miền Tây vào năm 1867 ) . Ông đã xác định rõ lập trường của mình trong bài thơ Xúc cảnh ( Ngóng gió đông ) :
                              Bờ cõi xưa đà chia đất khác
                              Nắng sương nay há đội trời chung  .

                2- TÍNH CÁCH CỦA CON NGƯỜI NAM KỲ LỤC TỈNH :
         Cũng qua thơ văn Nguyễn Đình Chiểu , ta thấy thể hiện rất rõ những tính cách đặc trưng của con người Nam bộ như : Phóng khoáng , trọng nghĩa khinh tài , thẳng thắn , trung thực , không tính toán che đậy ... Thể hiện rõ nhất là ba nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên ( Vân Tiên , Hớn
 Minh , Tử Trực ) và thông qua suy nghĩ , lời lẽ đối đáp của các nhân vật khác nữa .
                   - Hớn Minh kể chuyện bẻ cẳng tên công tử Đặng Sinh :
                              Tôi bèn nổi giận một khi
                               Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò  .
                   - Tả bọn cướp Phong Lai lộng hành :
                               Bây giờ xuống cướp thôn hương
                               Thấy con gái tốt qua đường bắt đi  .
                    - Chân thực , mộc mạc khi miêu tả cô gái đẹp :
                               Con ai vóc ngọc mình vàng
                               Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng  .
                    - Trịnh Hâm nói thẳng thừng khi mắng ông Quán :
                               Gối rơm theo phận gối rơm
                               Có đâu dưới thấp mà chồm lên cao .
                    - Ông Quán cũng thẳng thắn không kém :
                               Quán rằng : Sấm chớp mưa rào
                               Ếch nằm đáy giếng thấy bao lăm trời ...
                               Uổng thay đàn khảy tai trâu
                               Nước xao đầu vịt nghĩ lâu nực cười  .
                    - Tả bộ mặt xấu xí , chai lì của Bùi Kiêm :
                               Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê
                               Ngồi chai bề mặt như xề thịt trâu  .
                     - Bùi Kiệm tức giận trước thái độ trung thành của Nguyệt Nga :
                               Người ta chẳng lấy người ta                      
                               Người ta đâu lấy những là tượng nhân  .

                       Bằng ngôn ngữ thô ráp , góc cạnh , không trau chuốt , cứ như từ cuộc sống hàng ngày bước thẳng vào trang sách ; ông đã miêu tả tính cách tự do , phóng khoáng của con người Nam Kỳ Lục Tỉnh thật đúng và nghe thật sướng tai .
  
                       Tính cách đặc trưng Nam bộ này dễ tìm thấy trong kho tàng ca dao của nhân dân ta để lại . Tính cách ấy được hình thành và phát triển từ môi  trường sống , lao động sản xuất nơi vùng đất " khai hoang , mở cõi " này .
                        Thử điểm qua một vài câu ca dao :

                  - Cô gái nói thẳng lòng mình với chàng trai :
                             Thò tay ngắt một cọng ngò
                             Thương anh đứt ruột giả đò làm ngơ  .
                  - Thương nhau đến mức đòi cắt cả ruột gan :
                             Phải chi cắt ruột đừng đau
                             Chiều nay tôi cắt ruột tui đưa anh đem về  .
                   - Lấy thân thể của mình để làm thước đo tình yêu :
                             Tui xa mình không chết cũng đau
                             Thuốc bạc trăm không mạnh , mặt nhìn nhau mạnh liền  .
                   - Thương nhau đến cả nắm vạt áo :
                             Anh về em nắm vạt áo em la làng
                             Biểu anh phải bỏ chữ thương chữ nhớ lại giữa đàng cho
                         em  .
                    - Đôi khi hơi độc miệng một chút :
                             Anh có thương em thì cho em một đồng
                             Để em mua gan công , mật cóc em thuốc chồng rồi em
                              theo anh  ...

          Trên đây là mấy suy nghĩ tản mạn và có tính chất ban đầu về màu sắc Nam bộ trong thơ văn cụ Nguyễn Đình Chiểu . Cần phải đọc và nghiên cứu nhiều hơn nữa mới thấy hết tầm cao giá trị của thơ văn Người . Tuy nhiên , chỉ bấy nhiêu cũng cho ta thấy sở dĩ các tác phẩm của cụ Đồ sống
 mãi vì nó gần gũi với nhân dân . Đó chính là lời ăn tiếng nói , là suy nghĩ  và tình cảm của nhân dân. Từ đó đã hình thành một phong cách nghệ  thuật riêng cho ông , góp phần quan trọng vào dòng văn học yêu nước Nam bộ thời chống Pháp  .

                                                                                              LÊ NGỌC THẠC
                                                              (PCN.CLB.Thơ Ca Mây Hồng Cao Lãnh-Đồng Tháp)
                            NÉT ĐẸP CỦA BÀI THƠ XUÂN
                                      ĐÃ HƠN MỘT THIÊN NIÊN KỶ
                                 

     ùa xuân và tình yêu là đề tài muôn thuở cuả văn học nghệ thuật nói chung, trong đó có thơ ca. Từ xa xưa, các thi nhân đã từng sáng tác về đề tài này và để lại cho đời sau nhiều thi phẩm bất hủ.
        Trước thềm xuân mới, chúng tôi xin cùng quý thi hữu đọc lại và cảm nhận một bài thơ viết về mùa xuân và tình yêu nhưng về chiều dài thời gian thì đã cách xa chúng ta hơn một thiên niên kỷ. Đó là bài Tử dạ xuân ca của đại thi hào Lý Bạch.
                  

  I- VÀI NÉT VỀ THI HÀO LÝ BẠCH:
                  Lý Bạch (701-762) tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên Cư sĩ, sinh ở làng Thanh Liên, huyện Miện Dương, Tỉnh Tứ Xuyên. Ông xuất thân trong một gia đình giàu có, lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa; lớn lên thích ngao du sơn thủy. Lúc 25 tuổi, ông đã đến núi Nga Mi ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang, qua Động Đình Hồ, lên Sơn Tây, Sơn Đông, cùng 5 người bạn lên núi Thái Sơn uống rượu, ca hát, người đời gọi là Trúc Khê lục dật (sáu người ẩn dật trong khe Trúc).
                  Sau đó, được một người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Tràng An 3 năm, nhưng lại bất mãn và tiếp tục bỏ đi ngao du sơn thủy. Đến Lạc Dương, ông gặp Đỗ Phủ và kết bạn vong niên (Lý Bạch lớn hơn 11 tuổi).
Họ cùng Cao Thích vui chơi, thưởng trăng ngắm hoa, săn bắn được nửa năm, rồi ông lại chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương Nam.
                   Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lô Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi, ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy; uống say thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Hiện nay còn di tích Tróc Nguyệt Đài (Đài bắt trăng) ở huyện ̣Đăng Đồ, tỉnh An Huy, nơi đây đã trở thành địa điểm du lịch nổi tiếng ở Trung Quốc.
  
                      II- VỀ BÀI THƠ CỦA LÝ BẠCH:
                    Đây là bài thơ cổ phong của thi hào Lý Bạch. Thơ cổ phong là thể thơ tương đối tự do, không cần niêm luật chặt chẽ như thơ Đường; gồm những câu thơ 7 chữ hay 5 chữ (thất ngôn cổ phong hay ngũ ngôn cổ phong).
                    Thơ cổ phong xuất hiện vào thời Đông Hán (25-220), trước đời nhà Đường.

                                                              T DẠ XUÂN CA
                                                           Tần địa La phu nữ
                                                           Thái tang lục thủy biên
                                                           Tố thủ thanh điều thượng
                                                           Hồng trang bạch nhật tiên
                                                           Tàm cơ thiếp dục khứ
                                                           Ngũ mã mạc lưu liên.

                                                                                            LÝ BẠCH
 - La phu: Người con gái hái dâu trong khúc hát Mạch thượng tang.
 - Ngũ mã: Phẩm hàm của chức quan Thái thú.

                                                      KHÚC CA XUÂN CỦA NÀNG TỬ DẠ
                                                          La phu thiếu nữ Tần xinh xắn
                                                          Xuân sớm hái dâu trên bến sông
                                                          Biêng biếc cành xanh tay muốt trắng
                                                          Lung linh áo đỏ má hây hồng
                                                          Em phải về thôi, tằm đợi bữa
                                                          Người ơi, xin chớ mãi vời trông!

                                                                                           LÊ NGỌC THẠC
                                                                                              (Phỏng dịch)
                         III- ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN:
                      1- Hai câu đầu của bài thơ như một bức tranh thủy mặc, tác giả khắc họa hình ảnh cô gái hái dâu bên bờ sông với làn nước trong xanh, bình dị dân dã mà vô cùng quyến rũ.
                                                         Tần địa La phu nữ
                                                         Thái tang lục thủy biên
                                                   (Người con gái La phu đất Tần
                                                       Hái dâu bên bờ nước xanh)
                      Qua hình ảnh cô gái xinh đẹp đang hái dâu trên nền không gian màu xanh biếc của dâu, của làn nước; tác giả muốn ngợi ca cảnh làng quê thanh bình, yên ả. Người đọc cảm thấy tâm hồn thật nhẹ nhàng, thanh thản trước bức tranh phong cảnh và con người tuyệt mỹ.
                       2- Hai câu 3 và 4:
                                                         Tố thủ thanh điều thượng
                                                         Hồng trang bạch nhật tiên
                                           (Bàn tay trắng ngần vịn vào nhành cây xanh
                                            Ánh nắng mặt trời chiếu trên bộ đồ đỏ mới tinh)
                       Đến đây, những sắc màu lại được bàn tay của người nghệ sĩ tài hoa nâng lên, phối hợp một cách tuyệt đẹp. Màu xanh của nhành dâu, màu trắng ngần của đôi tay thiếu nữ, ánh nắng lung linh của mặt trời, màu đỏ của quần áo mới tinh ...
                       Hai câu thơ này đã làm hoàn chỉnh hơn bức tranh con người và phong cảnh. Bức tranh còn là hình ảnh ẩn dụ của một đất nước thanh bình, trong đó người dân được sống và lao động một cách an lành, vui vẻ và vô tư. Lời thơ vô cùng giản dị, không cầu kỳ, trau chuốt ... nhưng lại có sức quyến rũ lạ kỳ; cảm xúc thẩm mỹ của độc giả từng bước được nâng dần lên.
                       3- Hai câu kết vô cùng bất ngờ và tinh tế:
                                                         Tàm cơ thiếp dục khứ
                                                         Ngũ mã mạc lưu liên.
                                              (Tằm đói rồi thiếp phải chạy về nhà
                               Xin người – chàng trai đi xe 5 ngựa kéo – đừng ở lại lâu.)
                      Hai câu kết của bài thơ thật bất ngờ, hình ảnh thơ vô cùng hàm súc, lung linh đa nghĩa, có tác dụng mở rộng tối đa sự liên tưởng của người đọc.
                      Có một chàng trai đa tình đang say đắm, ngất ngây trước phong cảnh thiên nhiên và vẻ đẹp hồn nhiên, khỏe mạnh, mơn mởn của cô gái.
                     Thiếu nữ nửa như mời mọc, nửa như chối từ một cách khéo léo.. Thiếp phải về nhà thôi kẻo tằm bị đói, chàng có muốn đi theo không? Nhưng thôi, chàng là người cao sang, quyền quí chẳng nên dây dưa ở đây lâu mà làm gì! Thân phận của thiếp thấp hèn, chẳng qua chỉ là hoa dại bên đường. Nếu chàng không thật tình, đến rồi lại đi thì chỉ làm cho thiếp thêm đau khổ vì vương vấn mà thôi.
                     Bài thơ ngũ ngôn, vỏn vẹn có 30 chữ, ngắn gọn như một đóa hoa xinh xắn. Thế nhưng, ý nghĩa nhân văn mà nó mang lại vượt rất xa so với số lượng những con chữ được dùng. Tác giả đã sử dụng bút pháp ẩn dụ thật điêu luyện và tài hoa. Dùng hình ảnh thiếu nữ xinh đẹp đang hái dâu bên bờ nước trong xanh để ngợi ca khung cảnh đất nước thanh bình. Dùng cử chỉ vội vàng, bối rối vì lo tằm đói để thể hiện tâm trạng phân vân của cô gái quê hồn nhiên, chất phác trước sự say đắm của chàng trai đa tình. Hình ảnh thơ cô đọng mà hàm súc biết bao.
                       Người đời phong danh hiệu cho Lý Bạch là Thi tiên (ông tiên trong làng thơ). Sau khi ông qua đời, người cháu họ là Lý Đăng Dương sưu tầm lại thơ ông. Theo đó thì nhà thơ đã sáng tác khoảng 20.000 bài, nhưng ông không quan tâm lưu giữ nên hiện nay chỉ còn khoảng 1.800 bài.
                       Thơ ông viết về đủ mọi đề tài và lĩnh vực nào cũng có những tuyệt tác. Lý Bạch là thiên tài của những bài tuyệt cú (4 câu 5 chữ hoặc 7 chữ), cô đọng nhưng hàm súc như Tĩnh dạ tứ, Vọng Lư Sơn bộc bố, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng ... Ngôn ngữ thơ ông giản dị, tự nhiên; không cầu kỳ trau chuốt nhưng tứ thơ thì sâu sắc, có sức truyền cảm lạ kỳ. Ông đã để lại cho nhân loại nhiều thi phẩm bất hủ, sống mãi với thời gian. Nhân dịp đầu xuân, đọc lại thơ Lý Bạch, chúng ta càng hiểu rõ và cảm nhận sâu sắc hơn vẻ đẹp lung linh, quyến rũ của Đường thi.

                                                                                               LÊ NGỌC THẠC
                                                                        (P.Chủ Nhiệm CLB.Thơ ca Mây Hồng-ĐT)
                                  HÀN MẶC TỬ
                          VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT


          V ăn học Việt Nam giai đoạn1930-1945 đã đạt được những thành tựu vô cùng rực rỡ và xuất hiện nhiều tên tuổi lớn, trong đó có nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ông là nhà thơ nổi tiếng, là một trong những người khởi đầu cho trào lưu thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Thơ ông được đánh giá rất cao, một số bài được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy trong nhà trường như: Đây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín...
           Thế nhưng, khi nói về Hàn Mặc Tử, người ta thường nhắc đến những bài thơ mới theo khuynh hướng lãng mạn, rồi đến tượng trưng, siêu thực... mà ít đề cập đến mảng thơ đường luật của ông.
            Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn cùng quý thi hữu tìm hiểu thêm- tất nhiên chỉ là bước đầu- một số bài thơ đường luật của Hàn Mặc Tử. Từ đó, chúng ta có thể hình dung một cách đầy đủ hơn con đường thơ của ông, một thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh.
             I- VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI HÀN MẶC TỬ:
            Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22.09.1912 tại làng Lệ Mỹ, TX.Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Ông lớn lên ở Qui Nhơn (Tỉnh Bình Định) trong một gia đình theo Công giáo.
            Thân phụ của ông là Nguyễn Văn Toản, làm thông phán nên thường di chuyển nhiều nơi, do đó Hàn Mặc Tử cũng theo cha và học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Qui Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), trường dòng Pellerin Huế (1926)…
             Hàn Mặc Tử có năng khiếu thơ từ rất sớm, khi mới 14 tuổi, từng đạt giải nhất trong cuộc thi thơ ở một thi xã. Ông đã từng gặp cụ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá nhiều từ nhà chí sĩ này. Thơ ông được cụ Phan giới thiệu lên báo và họa vận 3 bài đường luật. Cũng do mối quan hệ với cụ Phan Bội Châu nên ông đã bị xóa tên khỏi danh sách đi du học ở Pháp.
             Hàn Mặc Tử có thời gian làm ở Sở Đạc điền Qui Nhơn (Tỉnh Bình Định), sau đó vào Sài Gòn lập nghiệp. Đến Sài Gòn, ông phụ trách trang Thơ báo Công Luận, phụ trách trang Văn báo Sài Gòn. Thơ ông đăng nhiều ở các báo: Phụ nữ Tân văn, Tiếng dân, Công luận, Tân thời, Đông dương tạp chí, Người mới, Trong khuê phòng, Sài Gòn...
              Khi biết mình mắc bệnh phong, một căn bênh nan y lúc bấy giờ; ông đã bỏ tất cả và trở về Qui Nhơn. Hàn Mặc Tử thuê một chòi tranh ở Gò Bồi (cách Qui Nhơn 15km) để ở và tuyệt giao với bạn bè. Tháng 9.1940, ông vào Bệnh viện phong Quy Hòa điều trị, mang số bệnh nhân 1134. Hàn Mặc Tử đã qua đời tại đây ngày 11.11.1940, khi mới 28 tuổi.
             Cuộc đời Hàn Mặc Tử được biết đến với nhiều mối tình. Có những người pḥu nữ ông đã gặp mặt, có người ông chỉ giao tiếp qua thư từ. Có thể kể đến như: Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện... Những mối tình đó đã để lại nhiều dấu ấn trong các tác phẩm của ông.
              - Các bút danh: Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mạc Tử (sau đổi thành Hàn Mặc Từ).
           - Các tác phẩm: Gồm các tập thơ như Lệ Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên (2 vở kịch thơ), Chơi giữa mùa trăng (thơ, văn xuôi)…
                    II- THƠ ĐƯỜNG LUẬT CỦA HÀN MẶC TỬ:
              Thế giới thơ của Hàn Mặc Tử khá phức tạp. Ông đã đi từ thơ Đường luật cổ điển sang thơ mới theo khuynh hướng lãng mạn, rồi đến tượng trưng, siêu thực. Giai đoạn đầu, cảm xúc thơ trong sáng, lời thơ nhẹ nhàng, tứ thơ bình dị, chan chứa tình quê...Nhưng càng về sau, thơ ông đầy những cảm xúc lạ lùng, kinh dị, huyền bí thậm chí điên loạn và đượm màu sắc tôn giáo. Những đau đớn do căn bệnh hiểm nghèo hành hạ thể xác và tâm hồn đã để lại dấu ấn rõ rệt trong tác phẩm của ông.
               Thơ đường luật của Hàn Mặc Tử được sáng tác ở giai đoạn đầu, tập hợp chủ yếu trong Lệ Thanh thi tập. Chúng tôi xin giới thiệu một số bài sau đây:

               1- NĂM BÀI TH
Ơ ĐƯỜNG LUẬT:
     CHUYẾN ĐÒ NGANG                                                                        THỨC KHUYA
                                                                                                               (Đêm không ngủ)
 Không hẹn hò sao gặp gỡ đây?                                           Non sông bốn mặt ngủ mơ màng
 Người thời như tỉnh, kẻ như say                                          Thức chỉ mình ta dạ chẳng an
 Trong veo làn nước soi đôi mặt                                           Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
 Xa tít quê nhà trỏ một tay                                                      Gió thu lọt cửa cọ mài chăn
 Tâm sự mới trao bờ đã đến                                                   Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ
 Nỗi niềm chưa cạn khách về ngay                                       Buồn giúp công danh dế dạo đàn
 Ba sinh duyên nợ âu là thế                                                   Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ
 Một chuyến đò đưa nghĩa một ngày.                                    Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.
               CHÙA HOANG                                                                           BUỒN THU

 Chùa không sư tụng cảnh buồn teo                                     Ấp úng không ra được nửa lời
 Xác Phật còn đây chuỗi Phật đâu?                                       Tình thu bi thiết lắm thu ơi!
 Réo rắt cành thông thay kệ đọc                                            Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
 Lập lòe bóng đóm thế đèn treo                                             Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi
 Hương sầu khói lạnh nằm ngơ ngác                                    Nằm gắng đã không thành mộng được
 Vách chán đêm suông đứng dãi dầu                                    Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi         
 Rứa cũng trơ gan cùng tuế nguyệt                                       Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt
 Bên thềm khắc khoải tiếng quyên kêu.                                 Chỉ có thông kia chịu với trời.

              GÁI Ở CHÙA                                                                    Giới thiệu bài họa Thức khuya
                                                                                                              của cụ Phan Bội Châu
 Rừng Thiền thấp thoáng dáng quần thoa                             Chợ lợi trường danh tí chẳng màng
 Khuê các trâm anh cũng rứa à?                                            Sao ăn không ngọt, ngủ không an
 Mùi tục chưa chi mà vội chán                                                Trăm năm ngán đó tuồng dâu bể
 Cuộc đời mới thế đã lo xa                                                      Muôn họ nhờ ai bạn chiếu chăn
 Lạt mùi son phấn say mùi đạo                                               Cửa sấm gớm ghê người đánh trống
 Chán cảnh phồn hoa mến cảnh chùa                                   Tai trâu mỏi mệt khách đưa đàn
 Dì Nguyệt trớ trêu lòng dạ thiểm                                            Lòng sen đằng đẵng tơ sen vướng
 Trăm năm nỡ để thiệt thòi hoa!                                              Mưa gió bao phen gội chẳng tàn.

           2- ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN:
            - Về bài thơ Chuyến đò ngang: Có lẽ không ai nghĩ là của một cậu bé 14 tuổi đã viết sau những chuyến qua đò đi học. Cảm xúc thơ thật mới lạ, trong sáng nên khi đọc ta cảm thấy ý thơ không bị nhốt trong cái lồng thơ quen thuộc và cũ kỹ. Hai câu:
                                                           Trong veo làn nước soi đôi mặt
                                                           Xa tít quê nhà trỏ một tay...
đã vẽ ra một không gian mênh mông, xa mờ từ con đò ngang đưa cậu bé mỗi ngày đi học. Con đò tuổi thơ ngày ấy đã dự báo một tài năng xuất chúng.
             - Ba bài thơ Thức khuya, Chùa hoang, Gái ở chùa được đăng trên Thực nghiệp dân báo năm 1931. Hàn Mặc Tử ( bút hiệu lúc bấy giờ là Phong Trần ) mới 19 tuổi. Cụ Phan Bội Châu đã khen ngợi: “Từ về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm, song chưa gặp được bài thơ nào hay đến thế. Hồng Nam nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười to một tiếng, ấy là thỏa hồn thơ tôi đó!”
             - Trong thơ đường luật của Hàn Mặc Tử, chúng ta thấy phảng phất khẩu khí và giọng điệu “ưu thời mẫn thế” kiểu như  Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương ...
                                                            Non sông bốn mặt ngủ mơ màng
                                                            Thức chỉ mình ta dạ chẳng an...
                                                            Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ
                                                            Buồn giúp công danh dế dạo đàn...
                                                                                              (Thức khuya)
              Cũng giống như tâm sự của các nhà nho yêu nước trước cảnh quê hương chìm trong bóng đêm nô lệ, luôn trăn trở, băn khoăn cùng thế sự.
                                                             Nằm gắng đã không thành mộng được
                                                             Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi...
                                                                                                  (Buồn thu)
                                                             Khắc khoải năm canh quyên nhớ nước…
                                                             Giấc điệp mơ màng vùng trỗi dậy
                                                             Vừa toan tính đó có ai hay...
                                                                         (Canh khuya cảm tác-Không giới thiệu toàn bài)
             - Ông có cách nhìn đời rất nhân văn, luôn sống và cảm thông với mọi người, cả những người con gái ở chùa.
                                                              Dì Nguyệt trớ trêu lòng dạ thiểm
                                                              Trăm năm nỡ để thiệt thòi hoa!
                                                                                                   (Gái ở chùa)
               Khó có thể tin rằng, Hàn Mặc Tử khi ấy mới 19 tuổi, cái tuổi mà thời đó người ta còn xem là thiếu niên.
              - Về cách sử dụng ngôn ngữ: Tuy hình thức thơ cũ, nhưng ông đã sử dụng những từ ngữ mang nội dung hoàn toàn mới.
                                                               Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
                                                               Gió thu lọt cửa cọ mài chăn...
                                                                                                   (Thức khuya)
                Với những từ leo song, sờ sẫm, lọt cửa, cọ mài..., Hàn Mặc Tử đã mang đến cho trăng gió, gối chăn- vốn là những hình ảnh sáo mòn- một nội hàm hoàn toàn mới: Sống động, gợi cảm, xác thịt hơn... Ông đã đem thơ bước sang một giai đoạn mới bằng những câu thơ hoàn toàn mang hơi thở lạ, thoát khỏi vòng luân lý, đạo đức của những năm 30 thế kỷ trước.
                                                               Réo rắt cành thông thay kệ đọc
                                                               Lập lòe bóng đóm thế đèn treo
                                                               Hương sầu khói lạnh nằm ngơ ngác
                                                               Vách chán đêm suông đứng dãi dầu...
                                                                                                    (Chùa hoang)
             Những từ réo rắt, lập lòe, bóng đóm, hương sầu, khói lạnh, vách chán, đêm suông, nằm ngơ ngác...đã gợi cái vắng lặng, khuya khoắt của một xóm thanh lâu hơn là cảnh thanh tịnh, đầy vẻ từ bi của nhà chùa! Cảnh chùa đã hoang, lại thêm không sưnhưng còn có Xác Phật, thật là tinh quái và phạm thượng biết bao! Có nhà nghiên cứu cho đây là sự phạm thượng của một thiên tài. Hàn Mặc Tử đã làm một cuộc cách mạng ngôn từ và tư tưởng như vậy trong thơ đường luật.

               Nhìn chung, số lượng thơ đường luật của Hàn Mặc Tử không nhiều; nhưng đây lại là cột mốc quan trọng trên con đường thơ của một thiên tài. Ngay từ những bài thơ đường luật chặt chẽ về niêm luật, chúng ta đã thấy xuất hiện những nụ mầm mới lạ về ngôn từ và tư tưởng. Những nụ mầm ấy đã nở thành những đóa hoa lung linh hương sắc ở giai đoạn tiếp theo và để lại cho đời những thi phẩm sống mãi với thời gian.
                                                                                 x       x
                                                                                      x
                Tôi đã về thăm đất Qui Nhơn, đứng lặng bên mộ Hàn Mặc Tử trên đồi Thi Nhân (Ghềnh Ráng), ngậm ngùi tiếc thương một con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Ông ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ và sự nghiệp văn chương cũng vừa mới bắt đầu.Thế nhưng, qua chặng đường thơ khoảng 10 năm của mình, thi sĩ đã trở thành một trong những người khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam với những vần thơ xuất thần, bất hủ. Không chỉ có vậy, ông còn để lại trong trái tim của hàng triệu người hâm mộ cả nước sự nuối tiếc và tình cảm mến thương vô hạn.
                      Xin mượn lời nhận xét sau đây của nhà thơ Chế Lan Viên để thay lời kết:
                 “Mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến đi và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử.” (Chế Lan Viên, Báo Người mới số 5,23.11.1940)

                                                                                                      LÊ NGỌC THẠC
                                                                   PCN.CLB.Thơ Ca Mây hồng TP. Cao Lãnh-Đồng Tháp


                                        

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét